61-K 37 mm là gì? Chi tiết về 61-K 37 mm mới nhất 2023

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Bước tới điều hướng
Bước tới tìm kiếm

Pháo tự động phòng không 61K-37 mm
61-K anti-aircraft gun, 2007.jpg

Pháo phòng không 61-K được trưng bày tại Bảo tàng Pháo binh Saint Petersburg
Loại Pháo tự động phòng không
Nơi chế tạo 23px Flag of the Soviet Union %28dark version%29.svg Liên Xô
Lược sử hoạt động
Phục vụ 1939 – Nay
Sử dụng bởi 23px Flag of the Soviet Union %28dark version%29.svg Liên Xô
23px Flag of Afghanistan.svg Afghanistan
23px Flag of Angola.svg Angola
23px Flag of Vietnam.svg Việt Nam
23px Flag of the People%27s Republic of China.svg Trung Quốc
23px Flag of Laos.svg Lào
23px Flag of the People%27s Republic of Kampuchea.svg Cộng hòa Nhân dân Campuchia
23px Flag of Cambodia.svg Campuchia
23px Flag of North Korea.svg Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên
23px Flag of Cuba.svg Cuba
Lược sử chế tạo
Người thiết kế Mikhail N Loginov
Năm thiết kế 1939
Nhà sản xuất Nhà máy Pháo binh số 8 (Liên Xô)
Giai đoạn sản xuất 1940–1951 (Liên Xô)
Số lượng chế tạo 20,000 khẩu được Liên Xô sản xuất trong giai đoạn từ 1939 đến 1945
Các biến thể 1 nòng, 2 nòng(phiên bản phòng không bộ binh), V-11 2 nòng(Hải quân)
Thông số
Khối lượng 2.100 kg (2,1 tấn)
Kíp chiến đấu Khoảng 4-8 người

Đạn pháo 37×250 mm. R
Cỡ đạn 37 mm
Cơ cấu hoạt động Nạp đạn nhờ lực giật
Khóa nòng Trượt dọc
Cao độ -5° đến 85°
Xoay súng Xoay 360°
Tốc độ bắn Lý thuyết: 160-170 viên/phút
Thực tế: 80-100 viên/phút
Vận tốc mũi 880 m/s
Tầm bắn hiệu quả 4 km (trên mặt đất), 3 km (trên không)
Tầm bắn xa nhất 9,5 km (trên mặt đất), 6,7 km (trên không)
Chế độ nạp Kẹp đạn 5 viên
Ngắm bắn Hệ thống ngắm tiêu chuẩn

61-K (tiếng Nga: 37-мм автоматическая зенитная пушка образца 1939 года (61-К)) là một loại pháo phòng không tự động có cỡ nòng 37 mm được Liên Xô sản xuất từ cuối năm 1939. Được dùng chủ yếu để phòng không, nhưng 61-K cũng có thể được dùng như một loại pháo bắn thẳng chống bộ binh hoặc xe thiết giáp. Tham chiến lần đầu tiên trong Thế chiến thứ hai, nó phục vụ chủ yếu ở mặt trận Xô-Đức và đã bắn hạ 14.657 máy bay của Luftwaffe[1]. 61-K và khẩu Bofors 40 mm của Thụy Điển (thường được Anh và Mỹ sử dụng) được đánh giá là ngang tài ngang sức. Sau này, nó là nền tảng để phát triển thành pháo phòng không tự động S-60 AZP 57 mm. Ký hiệu của NATO đối với 61-K là M1939.

Phát triển[sửa | sửa mã nguồn]

250px 37 mm automatic air defense gun M1939 %2861 K%29 at the Museum of Heroic Defense and Liberation of Sevastopol on Sapun Mountain

61-K 37 mm được trưng bày tại Sevastopol

Vào năm 1935, Hải quân Liên Xô đặt mua một số khẩu pháo phòng không tự động Model 1933 cỡ nòng 25mm do hãng Bofors chế tạo. Liên Xô cần có được một mẫu pháo phòng không tự động có chất lượng cao như khẩu Model 1933 nhưng nó phải phù hợp với năng lực sản xuất của Liên Xô. Ba nhà thiết kế M.N. Loginov, I.A. Lyamin và L.V. Lyuliev đã được giao nhiệm vụ nghiên cứu thiết kế một mẫu pháo phòng không như được yêu cầu ở trên. Họ đã thiết kế được một khẩu pháo phòng không tự động có cỡ nòng 45mm với tên gọi 49-K. Tuy việc thiết kế thành công nhưng quân đội lại không muốn sử dụng loại pháo này vì tầm hoạt động của khẩu 45 mm quá nhỏ so với phạm vi chiến trường.

Vào tháng 1 năm 1938, Nhà máy Pháo binh số 8 tại Kaliningrad bắt đầu thiết kế một khẩu pháo phòng không tương tự 49-K nhưng dùng cỡ đạn 37 mm nhằm gia tăng thêm tầm hoạt động. Chỉ 9 tháng sau, vào tháng 10 năm 1938, 61-K bắn thử lần đầu tiên. Toàn bộ thời gian thiết kế và đưa vào sản xuất chỉ mất có hơn 1 năm vì khẩu 49-K đã hoàn thiện tới 90% rồi, chỉ cần thay cỡ đạn 45 mm thành 37 mm để nó trở thành 61-K nữa thôi là hoàn thành rồi.

Năm 1939, các mẫu 61-K đầu tiên được sản xuất trên quy mô nhỏ, đến năm 1940 thì việc sản xuất được mở rộng trên quy mô lớn. Nhiều phiên bản 61-K được sản xuất như phiên bản pháo 1 nòng, pháo 1 nòng có tấm chắn đạn, pháo 2 nòng, phiên bản 70-K của Hải quân… Chúng cũng được xuất khẩu đến nhiều nước trên thế giới cùng một số biến thể khác nhau.

Phiên bản mặt đất[sửa | sửa mã nguồn]

200px Bundesarchiv Bild 101I 090 3916 07%2C Russland%2C Flakgesch%C3%BCtz

61-K trong Thế chiến Thứ hai

Sau khi nghiên cứu và bắt đầu đưa vào sản xuất thì ngay lập tức 61-K bắt đầu được biên chế. Một tổ súng phòng không thường có tám người (có thể giảm tùy theo tình hình chiến sự hoặc thiếu người), có thể mang theo 200 viên đạn mỗi súng. Đạn được đóng thành 5 viên 1 băng. 61-K có thể quay 360° và có thể hạ thấp nòng xuống -5°, cao nhất là 85°, tầm bắn trung bình là 8,5 km. Tính đến năm 1945, đã có 20.000 khẩu 61-K được chế tạo tại Liên Xô. Sau này chúng còn được sản xuất tại Ba Lan, Trung Quốc và Bắc Triều Tiên.

Phiên bản Hải quân[sửa | sửa mã nguồn]

Phiên bản Hải quân của 61-K là súng phòng không 70-K 37 mm, sau khi sản xuất, chúng bắt đầu thay thế các khẩu 21-K 45 mm trên các tàu chiến của Liên Xô, nhưng việc thay thế chưa hoàn thành thì Quân đội Phát xít Đức bắt đầu tấn công Liên Xô. Chỉ có loại tàu trục lôi hạm T-301 là được trang bị 70-K đầy đủ. Phiên bản V70-K còn được sản xuất đến năm 1955 thì ngừng lại. Tổng cộng có 3.113 khẩu được sản xuất. Sau này, Liên Xô tiếp tục sản xuất phiên bản hiện đại hóa của nó là V-11M.

ZSU-37[sửa | sửa mã nguồn]

ZSU-37 là phiên bản pháo phòng không tự hành của 61-K, được phát triển sau Thế chiến thứ hai. Hệ thống bao gồm tháp pháo là khẩu pháo phòng không 61-K được đặt trên thân xe pháo tự hành chống tăng SU-76.

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

61-K từng được sử dụng trong Thế chiến thứ hai, Chiến tranh Triều Tiên, Chiến tranh Việt Nam, Nội chiến Lào, Nội chiến Campuchia và nhiều cuộc chiến khác. Nó rất hiệu quả trong việc tạo hỏa lực phòng không tầm thấp đến tầm trung, kể cả việc hỗ trợ hỏa lực mặt đất.

Thế chiến thứ hai[sửa | sửa mã nguồn]

61-K chính thức được sử dụng tại Mặt trận Xô-Đức năm 1941. Ở trạng thái chiến đấu, nó tạo một màn hỏa lực dày đặc từ 0m đến độ cao 6.000 mét. Bấy giờ, gần như tất cả máy bay của phát xít Đức đều nằm trong tầm bắn của 61-K. Nó phối hợp cùng các loại pháo 57 mm, 85 mm, súng máy DShK 12,7 mm lập bức tường phòng không đa tầm hiệu quả. Tổng cộng đã có 14.657 máy bay các loại của Đức Quốc xã bị bắn hạ bởi pháo 37 mm.

Chiến tranh Triều Tiên[sửa | sửa mã nguồn]

Trong Chiến tranh Triều Tiên, 61-K 37 mm được sử dụng nhằm bảo vệ các khu vực chỉ huy, căn cứ, kho tàng vật chất của quân Trung Quốc, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên và Liên Xô. Nó phối hợp cùng các máy bay tiêm kích MiG-15 của không quân đã bẻ gãy nhiều cuộc tấn công của máy bay Hoa Kỳ như F-86 Sabre, F9F Panther, F4U Corsair và máy bay ném bom tầm trung như B-25. Khoảng mấy trăm máy bay Hoa Kỳ đã bị bắn hạ bởi 61-K.

Chiến tranh Đông Dương[sửa | sửa mã nguồn]

200px Viet Minh AAA artillery at the Dien Bien Phu Museum

Pháo phòng không 61-K ở phía sau cùng những khẩu DShK ở phía trước của Việt Minh sử dụng tại Điện Biên

Sau Chiến dịch Biên giới thu đông 1950, Quân đội Nhân dân Việt Nam bắt đầu có được những viện trợ quý giá từ Liên Xô thông qua chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, trong đó có những khẩu đội súng phòng không 12,7mm DShK-38. Không lâu sau, tháng 5 năm 1951, Việt Nam thành lập Đại đội 612, đơn vị phòng không chính quy đầu tiên, sử dụng 4 khẩu 61-K 37mm loại 1 nòng có tấm chắn, làm nhiệm vụ bảo vệ cầu Tà Lùng (Cao Bằng), một vị trí quan trọng trên tuyến đường giao thông với Trung Quốc.

Ngày 1 tháng 4 năm 1953, Trung đoàn Pháo cao xạ 367 được thành lập với 2.700 người, có khí tài nòng cốt là những khẩu pháo cao xạ 61-K 37 mm viện trợ từ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, được biên chế thành 6 tiểu đoàn mang các phiên hiệu: 381, 383, 385, 392, 394, 396. Mỗi tiểu đoàn có 3 đại đội pháo 37mm (mỗi đại đội có 4 khẩu) và 1 đại đội súng máy phòng không 12,7mm (12 khẩu). Một tiểu đoàn lái xe kéo pháo, xe vận tải và thợ sửa chữa mang phiên hiệu tiểu đoàn 690. Trong thư gửi cán bộ, chiến sỹ Trung đoàn 367 ngày 10 tháng 6 năm 1953, Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết: “Trong hoàn cảnh một đất nước, một quân đội chưa có không quân, thì Binh chủng Pháo cao xạ lại càng quan trọng. Trung đoàn 367 là một trong những đơn vị có trang bị tương đối hiện đại đầu tiên của quân đội ta, sẽ làm cơ sở và nòng cốt cho việc phát triển lực lượng phòng không to lớn sau này. Sự ra đời của Pháo cao xạ đánh dấu một bước trưởng thành mới của quân đội ta trên con đường tiến lên chính quy, hiện đại”[2]

Đến đầu năm 1953, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã có 8 tiểu đoàn phòng không, với 500 súng máy phòng không 12,7mm và 6 tiểu đoàn pháo cao xạ 61-K 37mm.

Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, lực lượng phòng không Việt Nam đã kết hợp hỏa lực của pháo phòng không 61-K cùng với súng máy DShK 12,7 mm đã bắn rơi 50 máy bay, 2 trực thăng, gây hư hại cho 167 chiếc khác, góp phần làm giảm ưu thế tác chiến từ trên không của quân Pháp, ngăn chặn khả năng tiếp viện cho quân Liên hiệp Pháp đồn trú tại Điện Biên Phủ. Kết thúc chiến dịch, bộ đội Pháo cao xạ đã được khen thưởng: 1 huân chương Quân công Hạng 2; 35 huân chương Quân công Hạng 3; 27 huân chương Chiến công Hạng nhất cho các đơn vị; 200 cán bộ, chiến sĩ được thưởng huân chương Chiến công các loại. Khẩu đội trưởng Tô Vĩnh Diện, người đã hi sinh khi cứu pháo được tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.

Chiến tranh Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]

Vào thời kỳ những năm 1956-1960, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bắt đầu nhận được nhiều pháo phòng không 61-K với nhiều phiên bản khác nhau từ Liên Xô. Hàng chục đơn vị pháo phòng không kết hợp súng 12,7 mm, 14,5 mm, 57 mm cùng 37 mm, 23mm đã được thành lập, được bố trí khắp miền Bắc và dọc theo Đường Trường Sơn. Các đơn vị này đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc bảo vệ các cơ quan, căn cứ quân sự, khu dân cư và các khu công nghiệp ở miền Bắc cùng những binh trạm ở Trường Sơn, ví dụ như trung đoàn pháo phòng không 218. Từ khi thành lập (21 tháng 3 năm 1958) đến khi kết thúc chiến tranh, trung đoàn không chỉ tham gia phòng không mà còn hỗ trợ hỏa lực mặt đất, đã đánh 1.977 trận, bắn rơi 320 máy bay Mỹ, bắn chìm một tàu biệt kích, phá hủy một giàn radar, một kho xăng, phối hợp cùng bộ binh tiêu diệt 2.000 quân đối phương. Ngoài ra, 61-K cũng cực kỳ hữu ích khi dùng để chống bộ binh, ví dụ điển hình là vào cuối năm 1972, tiểu đội bảo vệ trận địa 4 khẩu pháo 61-K của Đoàn 559, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã sử dụng pháo 37 mm tấn công bộ binh của địch trong chiến dịch Không Sê Đôn tại Lào.[3]

Hiện nay[sửa | sửa mã nguồn]

Pháo 61-K 37 mm vẫn còn được sử dụng trong lực lượng phòng không của nhiều quốc gia trên thế giới. Chúng vẫn còn hữu ích trong việc tiêu diệt các mục tiêu máy bay tầm thấp, tầm trung và đánh chặn tên lửa hành trình bay thấp. Hiện nay, 61-K đang được nhiều quân đội trên thế giới hiện đại hóa để có thể đáp ứng được với chiến tranh hiện đại.[4]

Đặc tính kỹ thuật[sửa | sửa mã nguồn]

Thiết kế M1939 70K
(Phiên bản Hải quân)
V-11-M
(Phiên bản Hải quân)
45 mm
(Phiên bản Hải quân)
Số lượng hộp đạn đưa vào súng 1 1 2 4 hoặc 2
Cỡ nòng 37 mm
(1.45 in)
45 mm
(1.77 in)
Sơ tốc 880 m/s
(2,887 ft/s)
900 m/s
(2,953 ft/s)
Khối lượng 2,100 kg
(4,630 lbs)
1,750 kg
(3,858 lbs)
3,450 kg
(7,606 lbs)
không rõ
Chiều dài 5.5 m
(18 ft)
3.8 m
(12.46 ft)
3.8 m
(12.46 ft)
6 m
(19.68 ft)
Chiều rộng 1.79 m
(5.87 ft)
2.2 m
(7.21 ft)
2.75 m
(9 ft)
Cao 2.11 m
(7 ft)
2.2 m
(7.21 ft)
1.8 m
(6 ft)
Góc ngẩng +85 đến
-5 độ
+85 đến
-10 độ
+85 đến
-10 độ
+90 đến
0 độ
Tốc độ xoay ? 20 độ / giây 17 độ / giây không rõ
Tốc độ bắn mỗi hộp đạn

(theo lý thuyết)
160 đến 170 viên/phút 160 đến 170 viên/phút 160 đến 170 viên/phút 160 đến 170 viên/phút

(thực tế)
80 viên/phút 100 viên/phút
Tầm bắn xa nhất
(Trên mặt đất)
9,500 m
(5.90 mi)
?
Tầm bắn hiệu quả
(Trên mặt đất)
4,000 m
(2.48 mi)
9,000 m
Tầm bắn lớn nhất
(Trên không)
6,700 m
(21,981 ft)
?
Tầm bắn hiệu quả
(Trên không)
3,000 m
(9,842 ft)
6,000 m
Kíp chiến đấu 8 6 3 4

Các quốc gia sử dụng[sửa | sửa mã nguồn]

250px 61 K anti aircraft gun at the Muzeum Polskiej Techniki Wojskowej in Warsaw

61-K được trưng bày tại Warszawa, Ba Lan

250px Type 65 37 mm AA MM 2 front

Pháo 61-K phiên bản K-65 2 nòng của Trung Quốc

23px Flag of Afghanistan.svg Afghanistan
21px Flag of Albania.svg Albania
23px Flag of Algeria.svg Algérie
23px Flag of Angola.svg Angola
23px Flag of Bangladesh.svg Bangladesh
23px Flag of Bulgaria.svg Bulgaria[5]
23px Flag of Cambodia.svg Campuchia
23px Flag of Cameroon.svg Cameroon
23px Flag of Cuba.svg Cuba
Ai Cập Ai Cập
23px Flag of Ethiopia.svg Ethiopia
Cộng hòa Dân chủ Đức Đông Đức

Phần Lan Phần Lan
20px Flag of Gabon.svg Gabon
23px Flag of Guinea.svg Guinée
23px Flag of Guinea Bissau.svg Guinea-Bissau
23px Flag of Indonesia.svg Indonesia
23px Flag of Iraq.svg Iraq
21px Flag of Israel.svg Israel
23px Flag of Laos.svg Lào
23px Flag of Mali.svg Mali
23px Flag of Mauritania.svg Mauritanie
Mông Cổ Mông Cổ
Maroc Maroc
23px Flag of Mozambique.svg Mozambique
23px Flag of Nicaragua.svg Nicaragua
23px Flag of North Korea.svg CHDCND Triều Tiên
23px Flag of Pakistan.svg Pakistan
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Trung Quốc
23px Flag of Poland.svg Ba Lan
23px Flag of the Republic of the Congo.svg Cộng hoà Congo
23px Flag of Romania.svg România
23px Flag of Somalia.svg Somalia
Liên Xô Liên Xô
23px Flag of Sudan.svg Sudan
23px Flag of Syria.svg Syria
23px Flag of Tanzania.svg Tanzania
23px Flag of Thailand.svg Thái Lan
23px Flag of Togo.svg Togo
23px Flag of Tunisia.svg Tunisia
23px Flag of Uganda.svg Uganda
23px Flag of Vietnam.svg Việt Nam
23px Flag of Yemen.svg Yemen
Cộng hòa Liên bang Xã hội chủ nghĩa Nam Tư Nam Tư
23px Flag of Zaire %281971%E2%80%931997%29.svg Zaire
23px Flag of Zambia.svg Zambia
23px Flag of Zimbabwe.svg Zimbabwe

Thông số loại đạn mà 61-K sử dụng[sửa | sửa mã nguồn]

250px 37 %D0%BC%D0%BC %D0%B0%D0%B2%D1%82%D0%BE%D0%BC%D0%B0%D1%82%D0%B8%D1%87%D0%B5%D1%81%D0%BA%D0%B0%D1%8F %D0%B7%D0%B5%D0%BD%D0%B8%D1%82%D0%BD%D0%B0%D1%8F %D0%BF%D1%83%D1%88%D0%BA%D0%B0 %D0%BE%D0%B1%D1%80. 1939 %D0%B3%D0%BE%D0%B4%D0%B0 %282%29

Vị trí nạp đạn

FRAG-T loại 1[sửa | sửa mã nguồn]

  • Đường kính: 37 mm
  • Nước sản xuất: Liên Xô
  • Tên: OR-167
  • Kíp nổ: MG-8 hoặc MG-37 PD
  • Khối lượng: 1,43 kg
  • Lượng thuốc nổ: 35 g
  • Sơ tốc: 880 m/s
  • Độ xuyên giáp: Không rõ[6]

FRAG-T loại 2[sửa | sửa mã nguồn]

  • Đường kính: 37 mm
  • Nước sản xuất: Liên Xô
  • Tên: OR-167N
  • Kíp nổ: B-37 PD hoặc MG-37 PD
  • Khối lượng: 1,43 kg
  • Lượng thuốc nổ: 40 g
  • Sơ tốc: 880 m/s
  • Độ xuyên giáp: Không rõ

AP-T[sửa | sửa mã nguồn]

  • Đường kính: 37 mm
  • Nước sản xuất: Liên Xô
  • Tên: BR-167
  • Kíp nổ: Không rõ
  • Khối lượng: 1,47 kg
  • Lượng thuốc nổ: Không rõ
  • Sơ tốc: 880 m/s
  • Độ xuyên giáp: 37–47 mm, 50–100 cm
250px Type 65 37 mm AA MW 1 rear

Vị trí tác chiến

HVAP[sửa | sửa mã nguồn]

  • Đường kính: 37 mm
  • Nước sản xuất: Liên Xô
  • Tên: BR-167P
  • Kíp nổ: Không rõ
  • Khối lượng: Không rõ
  • Lượng thuốc nổ: Không rõ
  • Sơ tốc: 960 m/s
  • Độ xuyên giáp: 57 mm, 100 cm

HE[sửa | sửa mã nguồn]

  • Đường kính: 45 mm (dùng cho các phiên bản pháo 45 mm nâng cấp từ 61-K hoặc không)
  • Nước sản xuất: Liên Xô
  • Tên: Không rõ
  • Kíp nổ: Không rõ
  • Khối lượng: 1,5 kg
  • Lượng thuốc nổ: Không rõ
  • Sơ tốc: 900 m/s
  • Độ xuyên giáp: Không rõ

[7]
[8]

Biến thể[sửa | sửa mã nguồn]

Do Norinco Trung Quốc sản xuất:

  • Type 55 (K-55): Sao chép y nguyên phiên bản 61-K 1939
  • Type 63 (K-63): Phiên bản 61-K 2 nòng đặt trên khung gầm Xe tăng T-34
  • Type 65 (K-65): Phiên bản 61-K 2 nòng
  • Type 74 (K-74): Phiên bản hiện đại hóa với tốc độ bắn lớn hơn
  • Type 74SD (K-74SD): Phiên bản hiện đại hóa có hệ thống điện tử
  • Type 79-III (K-79-III): Phiên bản hiện đại hóa với sơ tốc và góc ngẩng tốt hơn
  • Type 76 (K-76): Phiên bản hải quân 2 nòng
  • 793: Phiên bản hiện đại hóa 2 nòng với sơ tốc lớn hơn và giảm số người trong 1 kíp chiến đấu còn 5-6 người

Do Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên sản xuất: Tự sản xuất với giấy phép của Liên Xô

Hình ảnh[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ “ReferenceA” Shunkov V. N. – The Weapons of the Red Army (Vũ khí của Hồng quân Liên Xô)
  2. ^ http://hocvienpkkq.com/tin/index.php/vi/news/Phong-Khong-Khong-Quan/Don-vi-Cao-xa-da-u-tien-cu-a-Quan-do-i-nhan-dan-Vie-t-nam-1932/
  3. ^

    “Hạ nòng pháo 37mm, diệt bộ binh địch”. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2012.

  4. ^ Thiết bị kiểm tra huấn luyện xạ kích pháo phòng không 37mm
  5. ^ 257 khẩu 61-K đã được đưa tới Bungaria vào năm 1945-1948 – История на Зенитната артилерия и Зенитно-ракетните войски в Българската армия, София 1995, с. 102-103. (Lịch sử lực lượng pháo và tên lửa phòng không Quân đội Bulgarian, Sofia 1995, trang 102-103.)
  6. ^ Độ xuyên giáp chỉ xác định khi tiêu diệt mục tiêu bọc thép trên không như máy bay, trực thăng hoặc mặt đất như ô tô, các loại xe tăng có ERA hoặc giáp có thành phần đặc biệt như Uranium nghèo sẽ có độ xuyên của đạn 37 mm không giống với những thông tin ở trên.
  7. ^ “Thông tin về các loại đạn của Nga”. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 10 năm 2009. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2012.
  8. ^ “The Russian Ammunition Page”.
  9. ^ Khẩu pháo 61-K mang tên chiến sĩ Tô Vĩnh Diện là do vào tháng 3 năm 1954, khi khẩu pháo đang được kéo vào trận địa nhằm tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ thì bị lăn xuống dốc, anh Tô Vĩnh Diện là người đã lấy thân mình chặn khẩu pháo và đã hy sinh ngay lúc đó, từ đó nó có tên là Tô Vĩnh Diện nhằm tưởng nhớ người anh hùng này. Khẩu pháo này đã được lực lượng phòng không của Quân đội Nhân dân Việt Nam sử dụng để bắn hạ 3 máy bay của quân Pháp. Hiện nó đang được trưng bày tại Bảo tàng Phòng không Không quân (Hà Nội).

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]


Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=61-K_37_mm&oldid=64751216”

Từ khóa: 61-K 37 mm, 61-K 37 mm, 61-K 37 mm

LADIGI – Công ty dịch vụ SEO từ khóa giá rẻ, SEO từ khóa, SEO tổng thể cam kết lên Top Google uy tín chuyên nghiệp, an toàn, hiệu quả.

Nguồn: Wikipedia

Scores: 4.6 (124 votes)

100 lần tự tìm hiểu cũng không bằng 1 lần được tư vấn