7 Bài Toán Khó Nhất Trong Lịch Sử Loài Người (update 2023)

Các bài toán thiên niên kỷ là tập hợp những bài toán khoa học lớn và đầy thách thức được đưa ra vào thế kỷ 20, với hy vọng phát triển khoa học và công nghệ của con người trong thời gian 100 năm. Những bài toán này liên quan đến rất nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau như toán học, vật lý, hóa học, sinh học và khoa học máy tính. Theo đó, Các bài toán thiên niên kỷ đã trở thành một trong những thử thách lớn nhất và được quan tâm đến nhất trong giới khoa học và công nghệ. Nhiều bài toán đã được giải quyết trong suốt thời gian qua, tuy nhiên vẫn còn một số bài toán được coi là vẫn đang là thách thức mà những nhà khoa học và chuyên gia từ khắp nơi trên thế giới đang cố gắng giải quyết. Các bài toán thiên niên kỷ đang tạo nên những sự nghiên cứu và phát triển đột phá không chỉ trong khoa học và công nghệ mà còn ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống và tương lai của con người trên trái đất.

7 Bài Toán Khó Nhất Trong Lịch Sử Loài Người

1. Bài toán Fermat lớn: Tìm số nguyên dương n sao cho phương trình xⁿ + yⁿ = zⁿ không có lời giải nào khi n > 2.

2. Bài toán Poincaré: Giải quyết vấn đề về hình dạng của bề mặt 3 chiều đã được chỉ định. Nó đã được giải bởi Grigori Perelman vào năm 2002.

3. Bài toán Riemann: Giải quyết vấn đề về phân bố của các số nguyên tố trong dãy số số nguyên dương liên tiếp. Nó là một trong những bài toán cơ bản của toán học và vẫn chưa được giải quyết đến ngày nay.

4. Bài toán Yang-Mills: Tìm cách mô tả siêu cực dẫn của vật chất bằng lý thuyết Yang-Mills. Đây là một trong những bài toán hàng đầu của vật lý toán học với những ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực, từ vật lý địa cầu đến vật lý hạt nhân.

5. Bài toán Birch và Swinnerton-Dyer: Tìm hiểu mối quan hệ giữa các điểm trên đường cong Elliptic và các nhóm Selmer. Đây là một trong những bài toán lớn nhất của toán học đại số và đã thu hút sự quan tâm lớn của các nhà toán học hàng đầu.

6. Bài toán Navier-Stokes: Tìm công thức chính xác để mô tả chuyển động của chất lỏng và khí. Đây là một trong những bài toán quan trọng nhất của vật lý toán học và vẫn chưa được giải quyết một cách chính xác.

7. Bài toán Thâp Hà Nội: Di chuyển một tháp gồm n đĩa trên một trục, sao cho đĩa lớn nhất được đặt dưới cùng và không được đặt lên đĩa nhỏ hơn. Bài toán này là một trong những bài toán kinh điển của toán học, được sử dụng như một ví dụ để giải thích cách giải quyết vấn đề bằng phương pháp đệ quy.

Bí Ẩn 7 Bài Toán Thiên Niên Kỷ Chưa Có Lời Giải

Các bài toán thiên niên kỷ

Các bài toán thiên niên kỷ (tiếng Anh: Millennium Prize Problems) là bảy bài toán nổi tiếng và phức tạp, được lựa chọn bởi Viện Toán học Clay vào ngày 24 tháng 5 năm 2000. Viện này cũng đồng thời treo phần thưởng trị giá một triệu đô cho bất cứ ai có được lời giải chính xác cho mỗi bài toán trong danh sách này.

Tính tới nay, chỉ có duy nhất một bài toán trong danh sách này mới được giải, đó là giả thuyết Poincaré bởi nhà toán học người Nga Grigori Yakovlevich Perelman vào năm 2010, tuy nhiên ông đã từ chối nhận giải thưởng từ viện Clay do người cộng sự đắc lực của ông – Richard Streit Hamilton không được chia thưởng hoặc đồng vinh danh.

Sáu bài toán còn lại vẫn chưa được giải là:

  • Giả thuyết Birch và Swinnerton-Dyer
  • Giả thuyết Hodge
  • Bài toán Navier-Stokes
  • Bài toán P so với NP
  • Giả thuyết Riemann
  • Bài toán Yang-Mills

Những bài toán đã được giải

Giả thuyết Poincaré

Bài chi tiết: giả thuyết Poincaré

Trong không gian 2 chiều, mặt cầu là mặt phẳng đóng và đơn liên duy nhất. Giả thuyết Poincaré nói rằng điều này cũng đúng trong không gian 3 chiều. Đây là bài toán trọng điểm để giải quyết vấn đề tổng quát hơn trong việc phân loại mọi đa tạp 3 chiều. Giả thuyết được phát biểu chặt chẽ hơn như sau:

Mọi đa tạp 3 chiều đóng đơn liên thì đồng phôi với mặt cầu 3 chiều.

Chứng minh cho giả thuyết này được đưa ra bởi Grigori Perelman. Lời giải của ông dựa trên lý thuyết dòng Ricci của Richard Hamilton. Tuy nhiên, lời giải này chủ yếu nhờ vào sự cải tiến độc đáo của Perelman, đồng thời tận dụng nhiều kết quả về không gian metric của Cheeger, Gromov và của chính ông. Ngoài ra, Perelman còn chứng minh luôn cả giả thuyết hình học hoá của William Thurston (một trường hợp đặc biệt của giả thuyết Poincaré), đây là mảnh ghép vô cùng quan trọng để chứng minh giả thuyết Poincaré. Lời giải được công nhận vào tháng 8 năm 2006 và Perelman chính thức được trao giải bài toán thiên niên kỷ vào ngày 18 tháng 3 năm 2010. Nhưng ông đã từ chối nhận thưởng và mọi số tiền liên quan đến giải thưởng đó, điều mà ông cũng đã từng làm với giải Fields. Theo như The Interfax đưa tin, Perelman cho rằng giải thưởng không hề công bằng, vì những đóng góp của ông cũng chẳng hơn gì so với đóng góp của Hamilton.

Những bài toán chưa có lời giải

Giả thuyết Birch và Swinnerton

Bài chi tiết: Giả thuyết Birch và Swinnerton-Dyer

Giả thuyết Birch và Swinnerton-Dyer quan tâm đến một số loại phương trình, cụ thể là những phương trình định nghĩa lên đường cong elliptic trên trường số hữu tỉ. Giả thuyết nói rằng có một cách đơn giản để xác định xem phương trình đó có hữu hạn hay vô hạn nghiệm hữu tỉ. Bài toán thứ mười của Hilbert quan tâm đến những loại phương trình tổng quát hơn, và trong trường hợp tổng quát đó thì người ta đã chứng minh được rằng không có bất kì cách nào để xác định xem với phương trình được cho thì nó có nghiệm hay không.

Andrew Wiles là người đã đưa ra mệnh đề chính thức cho bài toán.

Giả thuyết Hodge

Bài chi tiết: Giả thuyết Hodge

Bài toán Navier-Stokes

Bài chi tiết: Bài toán Navier-Stokes
u t Gia tốc tức thời + ( u ) u Gia tốc đối lưu Quán tính ν 2 u Độ nhớt = w Nội lực + g Ngoại lực . {\displaystyle \overbrace {\underbrace {\frac {\partial \mathbf {u} }{\partial t}} _{\begin{smallmatrix}{\text{Gia tốc}}\\{\text{tức thời}}\end{smallmatrix}}+\underbrace {(\mathbf {u} \cdot \nabla )\mathbf {u} } _{\begin{smallmatrix}{\text{Gia tốc}}\\{\text{đối lưu}}\end{smallmatrix}}} ^{\text{Quán tính}}-\underbrace {\nu \,\nabla ^{2}\mathbf {u} } _{\text{Độ nhớt}}=\underbrace {-\nabla w} _{\begin{smallmatrix}{\text{Nội lực}}\end{smallmatrix}}+\underbrace {\mathbf {g} } _{\begin{smallmatrix}{\text{Ngoại lực}}\end{smallmatrix}}.}

Phương trình Navier-Stokes là phương trình giúp ta mô tả chuyển động của chất lưu, là một trong những công cụ trụ cột trong cơ học chất lưu, có ảnh hưởng rất lớn đến với khoa học kỹ thuật trong thực tiễn. Tuy nhiên về mặt lý thuyết thì những hiểu biết của ta đối với nghiệm của phương trình này là chưa hoàn thiện. Cụ thể, đặt phương trình trong không gian 3 chiều và cho hệ một số điều kiện ban đầu, các nhà toán học đến nay vẫn chưa chứng minh được liệu hệ có luôn tồn tại nghiệm trơn hay không.

Phát biểu chính thức cho bài toán được đặt ra bởi Charles Fefferman.

P so với NP

300px P np np complete np hard.svg
Biểu đồ Euler cho lớp các bài toán P, NP, NP-completeNP-hard.
Bài chi tiết: Bài toán P so với NP

Câu hỏi được đặt ra rằng liệu đúng hay không, với mọi bài toán kèm theo thuật toán có thể kiểm tra tính đúng đắn của nghiệm bài toán đó một cách nhanh chóng (tức trong thời gian đa thức) thì cũng sẽ tồn tại một thuật toán có thể tìm ra nghiệm của bài toán một cách nhanh chóng. Lớp các bài toán ở vế đầu và vế sau được đặt lần lượt là NP và P, nên ta có thể phát biểu bài toán một cách ngắn gọn hơn đó là liệu có phải mọi bài toán thuộc lớp NP cũng đều thuộc lớp P không. Đây được coi là một trong những câu hỏi mở quan trọng nhất trong toán học và khoa học máy tính vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến nhiều vấn đề trong các lĩnh vực khác như sinh học, triết học và mật mã. Bài toán SAT là một ví dụ điển hình cho bài toán thuộc lớp NP nhưng vẫn chưa biết liệu nó có thuộc lớp P hay không.

Hầu hết các nhà toán học và nhà khoa học máy tính tin rằng P ≠ NP. Tuy nhiên điều này vẫn chưa được chứng minh.

Stephen Cook là người đã đưa ra mệnh đề chính thức cho bài toán này.

Giả thuyết Riemann

220px RiemannCriticalLine.svg
Phần thực (màu đỏ) và phần ảo (màu xanh) của hàm zeta Riemann kèm với đường tới hạn Re(s) = 1/2. Nghiệm không tầm thường đầu tiên zeros có thể thấy tại điểm Im(s) = ±14.135, ±21.022 và ±25.011.
Bài chi tiết: Giả thuyết Riemann

Hàm zeta Riemann ζ(s) được xác định bởi

ζ ( s ) = n = 1 n s = 1 1 s + 1 2 s + 1 3 s + {\displaystyle \zeta (s)=\sum _{n=1}^{\infty }n^{-s}={\frac {1}{1^{s}}}+{\frac {1}{2^{s}}}+{\frac {1}{3^{s}}}+\cdots }

là hàm biến phức một số. Thác triển giải tích của nó có nghiệm tại các số nguyên âm chẵn, nói cách khác thì ζ(s) = 0 khi s bằng -2, -4, -6,…. Những nghiệm này được gọi là nghiệm tầm thường. Tuy nhiên đấy không phải là toàn bộ nghiệm của hàm zeta, những nghiệm khác được gọi là nghiệm không tầm thường. Giả thuyết Riemann quan tâm đến vị trí của những nghiệm không tầm thường này, cụ thể giả thuyết nói rằng:

Mọi nghiệm không tầm thường của hàm zeta Riemann đều có phần thực là 1/2.

Bất kì chứng minh nào về tính đúng sai của giả thuyết cũng đều sẽ ảnh hưởng sâu sắc đến lý thuyết số, đặc biệt là về sự phân phối của số nguyên tố. Đây là bài toán thứ tám của Hilbert, và đến nay nó vẫn được coi là bài toán còn bỏ ngỏ quan trọng nhất của thế kỷ.

Enrico Bombieri là người đã đưa ra mệnh đề chính thức cho bài toán này.

Bài toán Yang-Mills

Bài chi tiết: Bài toán Yang-Mills

Bài toán Yang-Mills là một trong những bài toán quan trọng nhất của vật lý lý thuyết hiện đại, được đặt ra bởi nhà vật lý học Chen Ning Yang và Robert Mills vào năm 1954. Bài toán này liên quan đến mô tả các tương tác giữa các hạt cơ bản thông qua trường Yang-Mills.

Trong lý thuyết Yang-Mills, trường được xác định bởi một ma trận trường, thường được gọi là trường gauge. Bài toán Yang-Mills là bài toán tìm trường gauge để giải quyết các phương trình Yang-Mills, đó là các phương trình đặc biệt trong vật lý lý thuyết về tương tác giữa các hạt cơ bản.

Bài toán Yang-Mills rất khó khăn, và hiện vẫn chưa có phương pháp giải quyết chính xác toàn bộ bài toán này. Tuy nhiên, các nhà toán học và vật lý học đã đưa ra nhiều kết quả quan trọng trong việc giải quyết các trường hợp đặc biệt của bài toán Yang-Mills, qua đó giúp cho việc hiểu rõ hơn về tính chất của tương tác giữa các hạt cơ bản trong vật lý lý thuyết.

Tham khảo

Hình tượng sơ khai Bài viết liên quan đến toán học này vẫn còn sơ khai. Bạn có thể giúp Wikipedia mở rộng nội dung để bài được hoàn chỉnh hơn.
  • x
  • t
  • s


Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Các_bài_toán_thiên_niên_kỷ&oldid=69843325”

Scores: 4.1 (117 votes)

100 lần tự tìm hiểu cũng không bằng 1 lần được tư vấn