Bước tới điều hướng
Bước tới tìm kiếm
An Lão
|
|||||
---|---|---|---|---|---|
Huyện | |||||
Hành chính | |||||
Vùng | Đồng bằng sông Hồng | ||||
Thành phố | Hải Phòng | ||||
Huyện lỵ | thị trấn An Lão | ||||
Phân chia hành chính | 2 thị trấn, 15 xã | ||||
Tổ chức lãnh đạo | |||||
Chủ tịch UBND | Ngô Thị Thanh Thủy | ||||
Bí thư Huyện ủy | Nguyễn Cao Lân | ||||
Địa lý | |||||
Tọa độ: 20°49′17″B 106°33′23″Đ / 20,821476°B 106,556411°ĐTọa độ: 20°49′17″B 106°33′23″Đ / 20,821476°B 106,556411°Đ | |||||
Diện tích | 114,58 km² | ||||
|
|||||
Dân số (2019) | |||||
Tổng cộng | 146.712 người | ||||
Mật độ | 1.280 người/km² | ||||
Khác | |||||
Biển số xe | 15-D1 | ||||
Website | anlao |
||||
An Lão là một huyện thuộc thành phố Hải Phòng, Việt Nam.
Địa lý
Huyện An Lão nằm ở phía tây thành phố Hải Phòng, tiếp giáp với tỉnh Hải Dương và có vị trí địa lý như sau:
Huyện lỵ của huyện là thị trấn An Lão, cách trung tâm thành phố Hải Phòng 18 km.
Huyện có diện tích 114,58 km², dân số năm 2019 là 146.712 người[1], mật độ dân số đạt 1.280 người/km².
Lịch sử
An Lão (安老=bình yên lâu dài) nguyên là vùng đất cổ mà thời Hùng Vương thuộc bộ Dương Tuyền (Thang Tuyền), thời Tần thuộc quận Nam Hải, Hán thuộc quận Giao Chỉ, sang nhà Đường đặt thuộc trấn Hải Môn, sau gọi là châu Hồng.
Buổi đầu độc lập, ba triều Đinh, Tiền Lê, Lý vẫn đặt thế. Nhà Trần đặt thuộc lộ Hồng Châu và từ đó, An Lão trở thành một huyện (gồm đất đai của An Lão, Kiến Thuỵ, Kiến An và Đồ Sơn hiện nay) thuộc châu Đông Triều, phủ Tân Hưng.
Năm 1468 nhà Lê đặt thuộc Thừa tuyên Nam Sách và năm sau, Vua Lê Thánh Tông cắt một phần An Lão lập huyện Nghi Dương, về sau thuộc phủ Kiến Thụy (7 huyện: Nghi Dương, Giáp Sơn, Đông Triều, An Lão, Kim Thanh, An Dương, Thuỷ Đường. Thời Nguyễn, phủ Kinh Môn lĩnh hai huyện, tính nhiếp 1 huyện là: Giáp Sơn, Thuỷ Đường và Đông Triều) trấn Hải Dương. Khi nhà Mạc (莫朝, 1527-1592) lập kinh đô ở Nghi Dương (nay là quận Dương Kinh) lấy các vùng quanh đó: Khoái Châu, Tân Hưng, Kiến Xương, Thái Bình đều cho lệ vào Dương Kinh 阳京. Thời ấy, do cách không xa cửa biển là mấy nên ven sông Úc là bãi bồi, đầy vũng trũng, sú vẹt còn hoang thưa lắm, quan quân nhà Mạc đưa tre từ Thanh Hoá về, tập hợp dân đóng kè, quai đê lấn biển, nắn sông, lập nên làng ấp, trong đó có các làng vùng Cao Mật. Lâu dần, dân khai phá bồi đắp thành đồng lúa.
Thời Lê Trung hưng đổi lại như cũ và vì Hải Dương đã được bình định nên 1741, chúa Trịnh chia làm bốn đạo: Thượng Hồng, Hạ Hồng, An Lão, và Đông Triều, mỗi đạo đặt một chức tuần thủ để chiếu theo địa phận vỗ về dân chúng. Tháng 9 nhuận năm Cảnh Hưng thứ 28 (Đinh Hợi, 1767), Trịnh Sâm lấy cớ rằng trong nước điêu tàn hao hụt, nếu đặt nhiều quan chức chỉ phiền nhiễu cho dân, bèn hợp lại hoặc bỏ bớt gồm 4 phủ, 29 châu huyện. Những phủ và châu huyện này đều cho phủ huyện tiếp cận kiêm lý. Khi đó An Lão do Thuỷ Đường kiêm lý.
Thời Nguyễn, An Lão trở thành một huyện của tỉnh Hải Dương (1831), từ năm Minh Mệnh thứ 14 (1833) nằm trong Phủ Kiến Thuỵ 建瑞府 (gồm 4 huyện: Nghi Dương 宜陽, Kim Thành 金城, An Dương 安陽 và An Lão 安老) do huyện Kim Thành kiêm nhiếp (từ 1851). Sau thuộc tỉnh Hải Phòng vào năm 1887 và do phủ Kiến Thụy 建瑞府 kiêm nhiếp. Cũng chính dịp này làng Hương (Cao Mật, An Lão) đổi thành đổi thành Phương (Lạp), cũng có nghĩa là “thơm”, tuy có khác: “Phương” 芳 là mùi thơm của “cỏ chi”, chứ không phải mùi thơm của hoa, lúa gạo nói chung như 芗. Thời Đồng Khánh (同慶, 1885-1889) An Lão có 10tổng với 62 xã, thôn.
Khi Pháp lập tỉnh Kiến An (02/1906) An Lão thuộc tỉnh này, gồm các tổng: An Luận 安論 (8 xã), Văn Đẩu 文斗 (7 xã), Phù Lưu 芙畱 (6 xã), Biều Đa 裒多 (7 xã), Cao Mật 高密 (8 xã), Du Viên 榆圜 (5 xã), Đâu Kiên 兜堅 (8 xã), Câu Thượng 枸上 (7 xã), Quan Trang 觀莊 (8 xã), Phương Chử 方渚 (7 xã), Đại Hoàng 大黃 (7 xã), Đại Phương Lang 大方榔 (7 xã).
Trong Cách mạng tháng Tám, đêm 16 rạng ngày 17 tháng 8 năm 1945. Tự vệ An Lão xuất phát từ căn cứ Câu Trung cùng đông đảo quần chúng nhân dân vũ trang đột nhập huyện lị buộc Tri huyện cùng toàn bộ lính tráng hạ súng đầu hàng, nộp ấn tín, tài liệu và vũ khí cho cách mạng. Chính quyền Cách mạng thành lập ngày 25 tháng 8.
Đầu cuộc kháng chiến, tháng 3 năm 1947 liên tỉnh Hải – Kiến thành lập Đảng bộ huyện An Lão lãnh đạo quân và dân xây dựng huyện, kháng chiến chống thực dân Pháp và củng cố hệ thống chính trị. Do vậy đã phá tan nhiều cuộc càn quét, tàn phá của địch, mà tiêu biểu là cuộc chiến đấu chống càn ngày 21 tháng 4 năm 1953 tại làng Đại Điền xã Tân Viên. Sau đó, ba trăm ngày cuối cùng của thực dân Pháp ở An Lão là ba trăm ngày giằng co quyết liệt giữa quân và dân ta với bọn thực dân phong kiến, kết thúc 9 năm kháng chiến, chấm dứt sự thống trị gần 100 năm của Pháp.
Ngày 8 tháng 5 năm 1955 chính quyền huyện ra mắt nhân dân. Trong Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, ngày 27 tháng 10 năm 1962, tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa II đã ra Nghị quyết về việc hợp nhất thành phố Hải Phòng với tỉnh Kiến An thành thành phố Hải Phòng và An Lão trở thành một huyện của thành phố kể từ đó.
Ngày 4 tháng 4 năm 1969, An Lão nhập với Kiến Thụy thành An Thụy rồi 11 năm sau, 16 xã cũ của An Lão nhập vào thị xã Kiến An thành huyện Kiến An bởi Quyết định số 71/QĐ-CP ngày 5 tháng 3 năm 1980 của Hội đồng Chính phủ.
Đến ngày 8 tháng 8 năm 1988 tái lập huyện An Lão theo Quyết định số 100/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng. Khi tách ra, huyện An Lão có 16 xã: An Thái, An Thắng, An Thọ, An Tiến, Bát Trang, Chiến Thắng, Mỹ Đức, Quang Hưng, Quang Trung, Quốc Tuấn, Tân Dân, Tân Viên, Thái Sơn, Trường Sơn, Trường Thành, Trường Thọ.
Ngày 23 tháng 11 năm 1993, thành lập thị trấn An Lão – thị trấn huyện lị của huyện An Lão, gồm phần đất của các xã An Tiến, An Thắng và Quốc Tuấn.
Ngày 5 tháng 4 năm 2007, chuyển xã Trường Sơn thành thị trấn Trường Sơn.
Huyện An Lão có 2 thị trấn và 15 xã như hiện nay.
Hành chính
Huyện An Lão có 17 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 2 thị trấn: An Lão (huyện lỵ), Trường Sơn và 15 xã: An Thái, An Thắng, An Thọ, An Tiến, Bát Trang, Chiến Thắng, Mỹ Đức, Quang Hưng, Quang Trung, Quốc Tuấn, Tân Dân, Tân Viên, Thái Sơn, Trường Thành, Trường Thọ.
Kinh tế
- An Lão có khu công nghiệp An Tràng, và nhiều cụm công nghiệp trên quốc lộ 10.
- Nông nghiệp và ngành tiểu thủ công nghiệp có tỷ trọng cao.
- Du lịch: Núi Voi
- Làng nghề: Mây tre đan Tiên Cầm; Hoa, cây cảnh Mông Thượng
- Sản vật: Chè Chi Lai
- Thuốc lào: Cao Mật – An Lão – Hải Phòng
Làng nghề
Các làng nghề, nghề phụ trong huyện như:
- Làng hoa cây cảnh Mông Thượng
- Thuốc lào Cao Mật
- Có nghề làm vàng mã Đâu Kiên
- Mây tre đan Tiên Cầm
- Chế tác đá An Tiến
- Trồng trọt cây lương thực, rau củ vụ đông, chăn nuôi, lao động trong và ngoài nước…
Tham khảo
-
^
Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở trung ương. “Dân số Việt Nam đến ngày 01 tháng 4 năm 2019”. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2020.
- Sơ khai Hải Phòng
- Huyện Hải Phòng
Từ khóa: An Lão, Hải Phòng, An Lão, Hải Phòng, An Lão, Hải Phòng
LADIGI – Công ty dịch vụ SEO uy tín giá rẻ, SEO từ khóa, SEO tổng thể cam kết lên Top Google uy tín chuyên nghiệp, an toàn, hiệu quả.
Nguồn: Wikipedia
100 lần tự tìm hiểu cũng không bằng 1 lần được tư vấn