Ankylosaurus là gì? Chi tiết về Ankylosaurus mới nhất 2023

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Bước tới điều hướng
Bước tới tìm kiếm

Ankylosaurus
Khoảng thời gian tồn tại: tầng Maastricht của Phấn Trắng muộn, 68–66 triệu năm trước đây

TiềnЄ
Є
O
S
D
C
P
T
J
K
Pg
N
Q

Brown skull cast on a pedestal
Mặt trước của mô hình sọ Ankylosaurus (AMNH 5214) tại bảo tàng Rockies ở thành phố Bozeman, bang Montana, Hoa Kỳ
Phân loại sinh học e
Giới:
Animalia
                   

Động vật

Ngành:
Chordata
                   

Động vật có dây sống

Lớp:
Reptilia
                   

Bò sát

nhánh:
Dinosauria
                   

Khủng long

Bộ:
Ornithischia
                   

Khủng long hông chim

Phân bộ:
Ankylosauria
                   

Giáp long

Họ:
Ankylosauridae
                   

Giáp long đuôi chùy

Chi: Ankylosaurus
Brown, 1908
Loài
  • A. magniventris Brown, 1908 (loài điển hình)

Ankylosaurus (/ˌæŋkəlˈsɔːrəs/,[1] “thằn lằn hợp nhất”) là một chi khủng long bọc giáp từng sống ở khu vực ngày nay là miền tây Bắc Mỹ. Các thành hệ địa chất mà hóa thạch chi này được tìm thấy có niên đại cuối kỷ Phấn Trắng, khoảng 68-66 triệu trăm trước đây, làm cho nó trở thành một trong những giống khủng long phi điểu cuối cùng trên Trái Đất trước khi sự kiện tuyệt chủng Phấn Trắng-Cổ Cận xảy ra. Định danh bởi Barnum Brown vào năm 1908 với loài duy nhất là A. magniventris (“bụng lớn”), cho tới nay vẫn chưa tìm thấy bộ xương nào hoàn chỉnh ngoại trừ một số hóa thạch rải rác. Tuy vậy, Ankylosaurus vẫn thường được xem là nguyên mẫu của phân bộ Ankylosauria (giáp long), dù cho nó có một số đặc điểm khác thường và dù cho các chi khác trong phân bộ có hóa thạch hoàn chỉnh hơn.

Có lẽ là thành viên lớn nhất trong họ Ankylosauridae (giáp long đuôi chùy), Ankylosaurus được ước tính dài từ 6 đến 8 mét (19,7 đến 26,2 ft) và nặng từ 4,8 đến 8 tấn (5,3 đến 8,8 tấn thiếu). Đi bằng bốn chân, cá thể chi này có một thân hình mập mạp, chắc nịch, đầu to, sát đất với hai sừng mọc từ sau hộp sọ chĩa về phía sau và hai sừng khác dưới hai sừng này bẻ về sau và dưới. Khác với các giáp long khác, lỗ mũi của Ankylosaurus hướng về hai bên thay vì đằng trước. Phía trước hàm có một cái mỏ che các hàng răng nhỏ hình lá ở trong miệng. Toàn thân được phủ dưới những phiến giáp gọi là vảy xương, cổ cũng được bọc bởi những nửa vòng xương, và ở chóp đuôi, xương kết lại thành một cái chùy lớn. Các xương ở sọ và một số phần khác của cơ thể đều kết lại với nhau, làm tăng khả năng chịu lực tác động từ bên ngoài. Tên chi (“thằn lằn hợp nhất”) cũng từ đó mà ra.

Ankylosaurus có lẽ là một động vật chậm chạp. Tuy nhiên, nó có thể thực hiện những động tác nhanh khi cần. Cái mõm to cho thấy đây là một chi gặm bừa. Các xoang và khoang ở mũi có thể để cân bằng nhiệt và nước hoặc đóng vai trò nào đó trong việc phát âm. Cái chùy lớn ở cuối đuôi có lẽ được dùng để tự vệ trước kẻ thù ăn thịt hoặc để đánh nhau. Hóa thạch Ankylosaurus được tìm thấy ở thành hệ Hell Creek, Lance, Scollard, Frenchman và Ferris. nhưng có vẻ như chi này hiếm gặp trong môi sinh lúc bấy giờ. Dù sống cùng thời với các giáp long xương kết, phạm vi và ổ sinh thái của hai họ này có vẻ không trùng nhau, với Ankylosaurus chuộng cao nguyên còn họ còn lại ưa những vùng đất thấp. Đương thời, Ankylosaurus sống cùng với các khủng long khác nhưTyrannosaurus, TriceratopsEdmontosaurus. Bà con gần nhất của nó trên phương diện tiến hóa có khả năng là AnodontosaurusEuoplocephalus.

Mô tả hóa thạch[sửa | sửa mã nguồn]

220px Ankylosaurus Scale V2.svg

Kích thước của mẫu lớn nhất (CMN 8880) và nhỏ nhất (AMNH 5214) so với người

Trong phân họ Ankylosaurinae, Ankylosaurus lớn nhất, thậm chí có lẽ là lớn nhất trong họ Ankylosauridae. Vào năm 2004, nhà cổ sinh người Mỹ Kenneth Carpenter ước tính chiều dài cá thể có hộp sọ lớn nhất hiện nay (CMN 8880, dài 64,5 cm (25,4 inch), rộng 74,5 cm (29,3 inch)) có thể đạt tới 6,25 m (20,5 foot) và cao 1,7 m (5,6 foot) đo tại hông. Mẫu sọ nhỏ nhất (AMNH 5214, dài 55,5 cm (21,9 inch), rộng 64,5 cm (25,4 inch)) theo Carpenter thuộc cá thể dài 5,4 m (17,7 foot) và cao khoảng 1,4 m (4,6 foot).[2] Năm 2017, dựa trên so sánh với những mẫu ankylosaurine khác hoàn chỉnh hơn, hai nhà cổ sinh người Canada Victoria Arbour và Jordan Mallon ước tính chiều dài 7,56–9,99 m (24,8–32,8 foot) cho CMN 8880 và 6,02–7,95 m (19,8–26,1 foot) cho AMNH 5214. Dù AMNH 5214 là mẫu Ankylosaurus nhỏ nhất, sọ của nó vẫn lớn hơn của tất cả ankylosaurine khác. Chỉ có một vài giáp long là có thể đạt đến chiều dài 6 m (20 foot). Dựa trên quan sát thấy các đốt sống của AMNH 5214 không lớn hơn mấy so với các ankylosaurine khác, Arbour và Mallon nghĩ chiều dài tối đa gần 10 m (33 foot) mà họ ước lượng cho một con Ankylosaurus to là quá lớn và nhắm khoảng 8 m (26 foot) là hợp lý hơn. Về khối lượng, Arbour và Mallon ước chừng 4,78 tấn (10.500 lb) cho AMNH 5214 và (một cách không chắc chắn) 7,95 tấn (17.500 lb) cho CMN 8880.[3] Benson và các đồng nghiệp năm 2014 cũng ước tính 4,78 tấn (10.500 lb) cho cá thể mẫu AMNH 5214.[4]

Sọ[sửa | sửa mã nguồn]

Two views of Ankylosaurus skull, from above and from the left

Sọ AMNH 5214 nhìn từ một bên và từ trên xuống, có thể thấy rõ các ô lợp trên bề mặt sọ

Có ba mẫu sọ Ankylosaurus được biết, đều ít nhiều khác nhau, có thể là do bị biến dạng bởi quá trình phân hủy và hóa thạch, cũng có thể đơn giản do tính dị hình giữa các cá thể. Sọ dẹp, hình tam giác, ngang nhiều hơn dài, gáy bè ra và dẹp. Trên xương tiền hàm là một cái mỏ to. Ổ mắt nửa tròn nửa oval, không thực sự hướng hẳn về hai bên do hộp sọ thon về trước. Nắp sọ ngắn như thấy ở các ankylosaurine khác. Có tổng cộng bốn sừng. Hai sừng trên có dạng kim tự tháp, cắm vào vị trí xương vảy sau sọ, dính với các chỗ lồi trên hố mắt, chĩa ra phía sau và sang hai bên. Sừng và các chỗ lồi này có lẽ đã từng tách rời nhau khi còn non như ở các chi bà con PinacosaurusEuoplocephalus. Dưới các sừng trên là các sừng ở xương gò má, chĩa về sau và xuống dưới. Tiền thân của sừng có thể là các vảy xương. Hoa văn dạng vảy trên bề mặt sọ (gọi là các “ô lợp” – “caputegulae“) là kết quả của sự định hình và tái cấu trúc xương sọ theo thời gian. Điều này làm xóa các ranh giới giữa các phần xương trên sọ, một đặc điểm thường thấy ở các cá thể trưởng thành. Kiểu và cách sắp xếp các ô lợp tùy vào từng cá thể, tuy nhiên vẫn có một số điểm chung: phía trước mõm, ở giữa hai lỗ mũi là một ô lợp khá lớn hình lục giác; trên mỗi ổ mắt, phía trước và sau đều có một ô lợp; và ở đằng sau gáy thì có một đường các ô lợp chạy dài.[2][3][5]

170px Ankylosaurus tooth

Răng mẫu định danh nhìn từ phía trong và phía ngoài

Vùng mỏm của Ankylosaurus là độc nhất trong các loài ankylosaur, và đã trải qua các biến đổi “cực kì lớn” so với họ hàng. Mõm cong và ngắn ở phía trước, lỗ mũi hình ê-líp và chĩa xuống ra xa, khác hẳn so với các ankylosaurid cõ mõm chĩa chéo lên trên. Ngoài ra, lỗ mũi không thể được quan sát ở phía trước bởi các xoang mở rộng sang hai bên của xương tiền hàm trên, rộng hơn hẳn so với các ankylosaur khác. Caputegulae lớn nằm giữa mắt và lỗ mũi (gọi là vùng lore)—các vảy xương hai bên mõm hình đai lưng—bao phủ hoàn toàn lỗ mũi của chúng, cho chúng hình dạng hình củ hành. Các lỗ mũi bên trong có vách, tách biệt đường ông khí khỏi các xoang. Mỗi bên mõm có năm xoang,bốn trong số đó mở rộng thành xương hàm trên. Các khoang mũi của Ankylosaurus được kéo dài và tách biệt bởi một vách trung gian, chia mõm thành hai nửa đối xứng. Vách có hai lỗ mở, bao gồm lỗ mũi sau (lỗ mũi bên trong mũi).[2][3]

Hàm trên rộng theo chiều ngang, trông giống một núm lồi, có thể là do các xoang bên trong xương. Xương hàm trên có một gờ tạo chỗ cho thịt má bám vào; sự hiện diện của má ở các loài khủng long hông chim vẫn đang bị bàn cãi, nhưng vài loài ankylosaur nodosaurid sở hữu các tấm giáp bảo vệ má, có thể đã gắn chặt luôn vào thịt. Mẫu vật AMNH 5214 có từ 34–35 ổ răng ở hàm trên và nhiều hơn hẳn các loài ankylosaurid họ hàng. Hàm răng trên của mẫu này dài khoảng 20 cm (8 in). Mỗi ổ răng lại có một lỗ mở ở bên gần nơi một răng thay thế có thể được nhìn thấy.[2]

So với các ankylosaur, xương hàm dưới của Ankylosaurus rất thấp tương đối với chiều dài của nó, khi nhìn từ bên, hàm răng thẳng chứ không cong. Hàm dưới chỉ được tìm thấy từ một mẫu nhỏ nhất (AMNH 5214) và dài khoảng 41 cm (16 in). Hàm dưới không hoàn chỉnh của mẫu lớn (CMN 8880) dài tương tự. AMNH 5214 có 35 ổ răng ở xương răng trái và 36 ở bên phải, tổng cộng 71, nhiều nhất trong số các ankylosaurid. Xương tiền hàm dưới hiện chưa được tìm thấy.[2] Hàm răng tương đối ngắn.[3] Giống các ankylosaur, Ankylosaurus sở hữu các răng nhỏ hình lá, dẹt theo chiều ngang.[6] Răng cao nhưng không rộng, và rất bé; do kích cỡ của chúng so với đầu, hàm có thể chứa nhiều răng hơn các họ hàng của chúng. Răng của con Ankylosaurus với sọ lớn nhỏ hơn cả các mẫu có sọ nhỏ. Một số răng sâu hơn vào trong cong vào trong, và vòng đỉnh răng phẳng ở một bên so với bên còn lại.[2] Răng của Ankylosaurus diagnostic và có thể phân biệt với các ankylosaurid dựa trên bề mặt bên. Các cạnh răng cưa khá lớn, từ 6 đến 8 ở phía trước răng, và từ 5 đến 7 ở phía sau răng.[2][7]

Bộ xương sau sọ[sửa | sửa mã nguồn]

Image of restored specimen of a squat quadruped with knobby back

Tái dựng

Cấu trúc phần lớn bộ xương Ankylosaurus, bao gồm phần lớn khung chậu, đuôi và chân, hiện vẫn chưa được biết.[2] Ankylosaurus đi bằng bốn chân với hai chi sau dài hơn chi trước.[8] Ở mẫu AMNH 5895, xương vai dài 61,5 cm (24,2 inch) dính liền với xương quạ (đoạn xương hình chữ nhật nối với phần dưới xương vai); tại đây có thể thấy bề mặt tiếp xúc gân-xương (nơi mà trước kia đã từng có gân bám vào). Xương cánh tay mẫu AMNH 5214 thì ngắn và rất rộng, dài khoảng 54 cm (21 inch). Xương đùi, cũng của mẫu AMNH 5214, rất chắc khỏe, dài khoảng 67 cm (26 inch). Dù hiện nay vẫn chưa tìm thấy chân Ankylosaurus, chân sau nó có lẽ có ba ngón, ngoại suy từ những giáp long đuôi chùy khác.[2]

Gai thần kinh đốt sống cổ Ankylosaurus to bành, gai sau cao hơn gai trước. Bề mặt tiếp xúc gân-xương ở phần trước những gai này rất phát triển, một đặc điểm thường thấy ở các khủng long trưởng thành, cho thấy ở đây từng có các dây chằng lớn, giúp nâng và hỗ trợ cho một cái đầu to. Các đốt sống lưng nằm khít nhau, làm chuyển động còng xuống bị hạn chế. So với chiều rộng thì thân các đốt sống này khá ngắn. Gai thần kinh của chúng cũng thon và ngắn, trên có các gân đã hóa xương bám vào, một số nằm chồng lên các đốt sống. Xương sườn bốn đốt sống lưng cuối dính lại với nhau; bề ngang lồng ngực tại đây rất rộng. Trên xương sườn có thể thấy các vết thẹo, chỉ tích những nơi trước đây từng có cơ bắp gắn vào. Hai bên đốt sống đuôi thì đều lõm vào trong – “lưỡng lõm”.[2]

Bộ giáp[sửa | sửa mã nguồn]

220px Ankylosaurus armor

Sắp xếp giáp theo gợi ý của Arbour và Mallon, 2017

Một đặc điểm trội ở Ankylosaurus chính là chiếc áo giáp, bào gồm các khối núm và lớp phiến làm từ xương gọi là vảy xương (osteoderm hoặc scute), nằm trong da. Chúng chưa được tìm thấy trong trạng thái gắn liền, do vậy chưa thể biết chỗ gắn thật sự, dù vậy chúng vẫn có thể được suy đoán từ các loài liên quan, và nhiều kiểu phục dựng đã được đề xướng. Các vảy xương có đường kính dao động từ 1 cm (0,4 in) tới 35,5 cm (14,0 in), và hình dạng phong phú. Vảy xương của Ankylosaurus nhìn chung mỏng và rỗng ở mặt dưới. So với Euoplocephalus, các vảy của Ankylosaurus mịn màng hơn. Các vảy nhỏ và các xương nhỏ có thể nằm giữa các vảy to. Vảy bao quát cơ thể rất phẳng, dù có vảy la ký (keel, vảy có đường chỉ ở giữa giống cái sống thuyền của tàu bè) ở một mép. Trái lại, loài nodosaurid Edmontonia có các vảy la ký trải dài từ mép này sang mép kia ở đường giữa vảy xương. Ankylosaurus có các vảy xương nhỏ hơn với đường sống chạy dọc ở giữa.[2][3]

Armor

Cervical half ring from the neck of Euoplocephalus (A–B) compared with half-ring fragments (C–J) of Ankylosaurus (AMNH 5895), and possible back osteoderms (K–L)

Giống các ankylosaurid, Ankylosaurus sở hữu các tấm giáp quanh cổ, nhưng ta hiện mới tìm được các mảnh nhỏ sót lại, khiến cho việc xác định vị trí của chúng trên cơ thể là bất khả thi. Carpenter gợi ý rằng khi nhìn từ trên xuống, các tấm sừng phải đi theo cặp, tạo hình chữ V ngược ở cổ, với phần giữa cổ có các vảy xương nhỏ tròn tạo khoảng cách để di chuyển cổ. Ông tin rằng vành đai giáp quá rộng để chỉ bao phủ cái cổ, và rằng vành này sẽ kéo dài đến tận vai. Arbour và Philip J. Currie không đồng ý với giả thuyết của Carpenter vào năm 2015 và chỉ ra rằng các mảnh vảy xương cổ của mẫu AMNH 5895 không khít vào nhau như ý kiến của Carpenter (có thể là do gãy vỡ). Họ thay vào đó cho rằng các mảnh này là các phần của cùng một vảy cổ, chúng sẽ tạo thành hai lớp áo giáp bán nguyệt theo tiết diện bao trùm phần trên cổ, giống ở các chi AnodontosaurusEuoplocephalus.[2][5] Arbour và Mallon miểu tả hình dạng của các vảy này như là “hình chữ U giống cái ách liên tục” ở phần trên cổ, và đề xuất rằng Ankylosaurus có 6 vảy la ký với hình oval trên mỗi tấm giáp cổ. Các ankylosaurid thường có các vảy xương nhỏ bao quanh các cái to hơn.[3]

Vảy xương đầu tiên sau tấm giáp cổ thứ hai sẽ có hình thù giống những cái ở trong giáp cổ, và các vảy xương ở trên lưng sẽ có đường kính giảm đi dần dần khi càng về sau. Các vảy lớn nhất có khả năng được sắp xếp thành hàng theo phương ngang và dọc trên phần lớn cơ thể, với 4 đến 5 hàng ngang chia tách bởi các nếp gấp da. Các vảy ở sườn bên có chu vi vuông vắn hơn những cái ở lưng. Đã có thể có 4 hàng dọc ở bên sườn. Khác các ankylosaur nguyên thủy và hầu hết các nodosaur, ankylosaurid dường như không sở hữu các lá chắn khung chậu đồng hóa thạch trên hông. Vài vảy xương không có vảy la ký có thể đã hiện diện trên hông của các Ankylosaurus, giống với Euoplocephalus. Ankylosaurus có thể đã có 4 đến 4 hàng ngang vảy xương tròn trên phần khung chậu, nhỏ hơn các vảy khác trên cơ thể, giống với Scolosaurus. Các vảy xương tam giác nhỏ hơn có thể nằm ở phần bên khung chậu. Các phiến sừng nhọn, phẳng giống ở đuôi của Saichania. Vảy với vảy la ký hình oval có thể nằm ở phần trên đuôi hoặc ở cạnh bên đuôi. Các vảy dẹt tam giác được tìm thấy cùng với các mẫu Ankylosaurus thường được đặt ở bên hông hoặc đuôi. Các vảu hình quả trứng, lật úp hình giọt lệ được biết là của Ankylosaurus, và vị trí có thể nằm ở chi trước, giống Pinacosaurus, ta không biết liệu chúng có vảy ở chi sau hay không.[2][3]

Fossilized tail club, black in coloring

Đuôi chùy duy nhất được biết (AMNH 5214), Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Hoa Kỳ

Đuôi chùy của Ankylosaurus gồm hai vảy xương khổng lồ, với một hàng vảy nhỏ chạy dọc giữa, và hai vảy xương nhỏ ở đầu cuối; chúng che đi mất đốt sống đuôi cuối. Chỉ riêng chùy của mẫu AMNH 5214 được khai quật, đặc điểm phân biệt ở mức cá thể của đuôi không được biết. Đuôi chùy AMNH 5214 dài 60 cm (24 in), rộng 49 cm (19 in), và cao 19 cm (7 in). Đuôi của mẫu lớn nhất có thể sẽ rộng 57 cm (22 in). Chùy của Ankylosaurus mang hình bán nguyệt khi nhìn từ trên, giống đuôi của EuoplocephalusScolosaurus nhưng khác biệt với đuôi chùy mang vảy nhọn hoắt của Anodontosaurus hay cái đuôi hẹp, kéo dài của Dyoplosaurus. 7 đốt đuôi trên tạo thành phần “tay cầm” của cái chùy. Các đốt sống đuồi này tiếp xúc, không có sụn ở giữa, thường hóa thạch, khiến chúng bất cử động. Dây chằng hóa cứng gắn vào đốt sống ngay trước chùy, và các đặc điểm này củng cố sức mạnh đuôi. Các mỏm khớp (zygapophyses) và gai thần kinh của các đốt tay cầm có hình chữ U khi nhìn từ trên, các ankylosaurid thì có hình chữ V, có thể là do tay cầm của Ankylosaurus rộng hơn. Chiều rộng sẽ khiến đuôi Ankylosaurus ngắn hơn tỉ lệ với kích cỡ cơ thể hơn các đuôi của ankylosaurid họ hàng, hoặc có chùng tỉ lệ nhưng chùy nhỏ hơn.[2][3][9]

Lịch sử khai quật[sửa | sửa mã nguồn]

Photograph of dorsal view of fossilized skull next to sketch of the same

Sọ của mẫu gốc AMNH 5895 và sơ đồ minh họa của nó

Năm 1906, trong một chuyến khảo sát của bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Hoa Kỳ dẫn đầu bởi nhà cổ sinh Barnum Brown, người ta tìm thấy mẫu chuẩn của Ankylosaurus magniventris (AMNH 5895) tại thành hệ Hell Creek, gần Gilbert Creek, bang Montana. Mẫu này (phát hiện bởi nhà sưu tập Peter Kaisen) gồm phần trên hộp sọ, hai cái răng, một phần đai vai, các đốt sống hông, cổ và đuôi, xương sườn và hơn ba mươi vảy xương. Dựa vào đó, Brown miêu tả khoa học giống khủng long này vào năm 1908. Tên chi là sự kết hợp giữa từ Hy Lạp cổ αγκυλος/ankulos (‘bẻ cong’ hoặc ‘còng’), ám chỉ đến thuật ngữ ngành y “ankylosis” (chứng cứng khớp), một bệnh lý tạo ra bởi sự dính liền các xương ở thân và hộp sọ, và σαυρος/sauros (‘thằn lằn’), có thể dịch nôm na thành “thằn lằn hợp nhất”, “thằn lằn cứng cáp” hoặc “thằn lằn cong”. Tên loài điển hình magniventris dựa trên từ tiếng Latinh: magnus (‘lớn’) và venter (‘bụng’), ám chỉ tới bề ngang rộng rãi của thân mình con vật.[10][11][12]

Images of skeleton: side view facing left, dorsal view, and dorsal view of dorsal plates

Phục dựng năm 1908 của AMNH 5895, với những phần thiếu lấy từ Stegosaurus

The skeletal reconstruction accompanying the 1908 description restored the missing parts in a fashion similar to Stegosaurus, and Brown likened the result to the extinct armored mammal Glyptodon.[10] In contrast to modern depictions, Brown’s stegosaur-like reconstruction showed robust forelimbs, a strongly arched back, a pelvis with prongs projecting forwards from the ilium and pubis, as well as a short, drooping tail without a tail club, which was unknown at the time. Brown also reconstructed the armor plates in parallel rows running down the back; this arrangement was purely hypothetical. Brown’s reconstruction became highly influential, and restorations of the animal based on his diagram were published as late as the 1980s.[13][14][15] In a 1908 review of Brown’s Ankylosaurus description, American paleontologist Samuel Wendell Williston criticised the skeletal reconstruction as being based on too few remains, and claimed that Ankylosaurus was merely a synonym of the genus Stegopelta, which Williston had named in 1905. Williston also stated that a skeletal reconstruction of the related Polacanthus by Hungarian paleontologist Franz Nopcsa was a better example of how ankylosaurs would have appeared in life.[16] The claim of synonymy was not accepted by other researchers, and the two genera are now considered distinct.[17]

Brown had collected 77 osteoderms while excavating a Tyrannosaurus specimen in the Lance Formation of Wyoming in 1900. He mentioned these osteoderms (specimen AMNH 5866) in his description of Ankylosaurus but thought they belonged to the Tyrannosaurus instead. Paleontologist Henry Fairfield Osborn also expressed this view when he described the Tyrannosaurus specimen as the now invalid genus Dynamosaurus in 1905. More recent examination has shown them to be similar to those of Ankylosaurus; it seems that Brown had compared them with some Euoplocephalus osteoderms, which had been erroneously catalogued as belonging to Ankylosaurus at the AMNH.[2][18]

Photograph in black and white of rugged, fissured cliff face

Nơi đào AMNH 5214 (ở giữa, phía trên pick), 1910

In 1910 another AMNH expedition led by Brown discovered an Ankylosaurus specimen (AMNH 5214) in the Scollard Formation by the Red Deer River in Alberta, Canada. This specimen included a complete skull, mandibles, the first and only tail club known of this genus, as well as ribs, vertebrae, limb bones, and armor. In 1947 fossil collectors Charles M. Sternberg and T. Potter Chamney collected a skull and mandible (specimen CMN 8880, formerly NMC 8880), a kilometre (0.6 mile) north of where the 1910 specimen was found. This is the largest-known Ankylosaurus skull, but it is damaged in places. A section of caudal vertebrae (specimen CCM V03) was discovered in the 1960s in the Powder River drainage, Montana, part of the Hell Creek Formation. In addition to these five incomplete specimens, many other isolated osteoderms and teeth have been found.[2][3]

In 1990 American paleontologist Walter P. Coombs pointed out that the teeth of two skulls assigned to A. magniventris differed from those of the holotype specimen in some details, and though he expressed a “considerate temptation” to name a new species of Ankylosaurus for these, he refrained from doing so, as the range of variation in the species was not completely documented. He also raised the possibility that the two teeth associated with the holotype specimen perhaps did not belong to it, as they were found in matrix within the nasal chambers.[6] Carpenter accepted the teeth as belonging to A. magniventris, and that all the specimens belonged to the same species, noting that the teeth of other ankylosaurs are highly variable.[2]

Photograph of a dinosaur diorama

Replica of the 1964 World’s Fair Ankylosaurus (note spikes and dragging tail), Royal Alberta Museum

Most of the known Ankylosaurus specimens were not scientifically described at length, though several paleontologists planned to do so until Carpenter redescribed the genus in 2004. Carpenter noted that Ankylosaurus has become the archetypal member of its group, and the best-known ankylosaur in popular culture, perhaps due to a life-sized reconstruction of the animal being featured at the 1964 World’s Fair in New York City.[2] That sculpture, as well as the American artist Rudolph Zallinger’s 1947 mural The Age of Reptiles and other later popular depictions, showed Ankylosaurus with a tail club, following the first discovery of this feature in 1910. In spite of its familiarity, it is known from far fewer remains than its closest relatives. In 2017 Arbour and Mallon redescribed the genus in light of newer ankylosaur discoveries, including elements of the holotype that had not been previously mentioned in the literature (such as parts of the skull and the cervical half-rings). They concluded that though Ankylosaurus is iconic and the best-known member of its group, it was bizarre in comparison to related ankylosaurs, and therefore not representative of the group.[3]

Many traditional popular depictions show Ankylosaurus in a squatting posture and with a huge tail club being dragged over the ground. Modern reconstructions show the animal with a more upright limb posture and with the tail held off the ground. Likewise, large spines projecting sideways from the body (similar to those of nodosaurs) are present in many traditional depictions, but are not known from Ankylosaurus itself.[13] The armor of Ankylosaurus has often been conflated with that of Edmontonia (earlier referred to as Palaeoscincus); in addition to Ankylosaurus being depicted with spikes, Edmontonia has also been depicted with an Ankylosaurus-like tail club (a feature nodosaurids did not have), including in a mural by the American artist Charles R. Knight from 1930.[3]

Biểu đồ phân nhánh[sửa | sửa mã nguồn]

Two fossilized knobs of bone, black with white streaks

Đây có thể là vảy xương lưng của AMNH 5895, đặt nằm sấp (bên trái) và ngửa (bên phải)

Brown thấy Ankylosaurus có những đặc điểm riêng biệt đáng để ông tạo một họ mới (Ankylosauridae – giáp long đuôi chùy) với nó là chi điển hình. Họ này đặc trưng bởi hộp sọ hình tam giác lớn, cổ ngắn, thân mình chắc nịch được bao bọc bởi các vảy xương. Chi Palaeoscincus (chỉ được biết qua hóa thạch răng), và Euoplocephalus (khi đó chỉ được biết qua vảy xương và một phần hộp sọ) cũng được Brown xếp vào họ này. Vì tính rời rạc, chắp vá của các hóa thạch còn sót lại, Brown không thể hoàn toàn phân biệt EuoplocephalusAnkylosaurus. Với những mẫu không hoàn chỉnh của một vài thành viên trong họ, Brown xếp lầm họ này vào phân bộ Stegosauria (kiếm long).[10] Năm 1923 Osborn tạo phân bộ riêng cho họ này, lấy tên là Ankylosauria (giáp long).[19]

Ankylosauria và Stegosauria hiện nay nằm trong nhánh Thyreophora (khủng long bọc giáp). Nhánh này xuất hiện lần đầu vào tầng Sinemur kỷ Jura và tồn tại suốt 135 triệu năm cho đến tầng Maastricht kỷ Phấn Trắng thì biến mất. Chúng có một vùng phân bố rộng rãi thuộc nhiều môi trường khác nhau.[2][14] Theo thời gian, với việc tìm thấy nhiều mẫu vật hoàn thiện hơn và nhiều chi mới được đặt tên, các giả thuyết về mối quan hệ phân loại học giữa các giáp long ngày càng trở nên phức tạp và thường bị thay đổi từ nghiên cứu này sang nghiên cứu khác. Ngoài Ankylosauridae, Ankylosauria còn được chia thành họ Nodosauridae (giáp long xương kết) và ở một số nghiên cứu còn chia nhỏ hơn nữa thành phân họ Polacanthidae nữa; các giáp long trong họ/phân họ này không có đuôi chùy.[20] Nằm trong phân họ Ankylosaurinae,[20] Ankylosaurus có vẻ có quan hệ gần gũi nhất với AnodontosaurusEuoplocephalus trên phương diện phân loại học.[21] Biều đồ phân nhánh dưới đây dựa trên phân tích phát sinh chủng loại bởi Arbour và Currie vào năm 2015:[5]

220px Ankylosaurin skulls

Hai sọ lớn bên dưới là của Ankylosaurus so với những ankylosaurin khác.

Ankylosauridae
[n 1]
[n 1]

Gastonia Gastonia burgei dinosaur.png

Ahshislepelta

Aletopelta

Liaoningosaurus

Cedarpelta

Chuanqilong

Gobisaurus GobisaurusNV transparent.png

Shamosaurus

Ankylosaurinae
[n 1]
[n 1]

Crichtonpelta

Tsagantegia

“Zhejiangosaurus”

Pinacosaurus Pinacosaurus Jack Wood 2017 flipped transparent.png

Saichania

Tarchia

Zaraapelta

Ankylosaurini
[n 1]
[n 1]

Dyoplosaurus

Talarurus Talarurus transparent.png

Nodocephalosaurus

Ankylosaurus Ankylosaurus magniventris reconstruction.png

Anodontosaurus

Euoplocephalus Euoplocephalus BW transparent.png

Scolosaurus Scolosaurus SW.png

Ziapelta Ziapelta transparent.png

Với việc nhóm chung Ankylosaurus và những giáp long đuôi chùy Bắc Mỹ thế Phấn Trắng muộn khác với những bà con châu Á của chúng trong một tộc đặt tên là Ankylosaurini, Arbour và Currie đưa ra giả thuyết rằng các giáp long đuôi chùy Bắc Mỹ trước đó đã tuyệt chủng vào tầng Alba hoặc Cenoman giữa kỷ Phấn Trắng. Sau này những giáp long đuôi chùy châu Á lại trở về Bắc Mỹ vào tầng Champagne hoặc Turon thế Phấn Trắng muộn và ở đó chúng phân hóa lần nữa, tạo nên các chi như Ankylosaurus, AnodontosaurusEuoplocephalus. Điều này giải thích cho khoảng trống 30 triệu năm trong di chỉ hóa thạch giáp long đuôi chùy Bắc Mỹ giữa các tầng này.[5]

Đặc điểm cổ sinh[sửa | sửa mã nguồn]

Chế độ dinh dưỡng[sửa | sửa mã nguồn]

220px Ankylosaurus skull CMN 8880

Sọ của CMN 8880, mẫu giáp long đuôi chùy lớn nhất đào được, cùng với hàm dưới (E–F) và răng (G)

Như những khủng long hông chim khác, Ankylosaurus là động vật ăn thực vật. Cái mõm to của nó thích hợp cho việc ăn bừa các loại thực vật tầng thấp,[2] dù so với một số bà con gần, đặc biệt là Euoplocephalus, nó vẫn còn kén chọn hơn.[22] Các khám phá gần đây cho thấy dù giáp long có lẽ không ăn thực vật có sợi và có gỗ, khẩu phần ăn của chúng có vẻ không chỉ có thực vật mềm như người ta nghĩ trước đây mà còn gồm lá cứng và trái có nhiều thịt.[23] Thức ăn của Ankylosaurus có khả năng là những bụi cây thấp và dương xỉ, những loại thực vật có rất nhiều thời đó. Nếu là động vật nội nhiệt thì Ankylosaurus sẽ cần khoảng 60 kg (130 lb) dương xỉ mỗi ngày, tương đương với lượng thực vật khô mà một con voi to sẽ cần. Nhu cầu dinh dưỡng này sẽ được đáp ứng tốt hơn nếu nó cũng ăn trái cây, điều mà dạng răng nhỏ, nhọn cũng như cái mõm hẹp hơn của nó (so với các giáp long đuôi chùy khác như Euoplocephalus) có vẻ thích ứng hơn. Dạng răng này cũng thích hợp cho việc ăn một số loài không xương sống nhỏ; vậy nên thi thoảng chắc nó cũng ăn loại động vật này để bổ sung dinh dưỡng.[3]

Thân răng Ankylosaurus bị mòn ở mặt thay vì đỉnh như ở giáp long xương kết.[2] Vào năm 1982, Carpenter gán cho hai mẫu răng hóa thạch rất nhỏ, dài 3,2 và 3,3mm, đào từ thành hệ Lance và Hell Creek, là của Ankylosaurus con. Qua việc mẫu 3,2mm bị mòn rất dữ, Carpenter nghĩ các giáp long đuôi chùy hoặc chí ít là con non của chúng không nuốt chửng thức ăn mà có nhai theo một cách nào đó.[7]Ankylosaurus trưởng thành ít nhai, việc kiếm thức ăn của chúng sẽ ít chiếm thời gian trong ngày hơn là voi hiện đại.[3] Với lồng ngực rộng, Ankylosaurus có khả năng đã tiêu hóa các thức ăn không nhai này qua quá trình lên men chót ruột phôi, tương tự như ở các loài thằn lằn ăn cỏ hiện đại có nhiều khoang trong ruột già lớn.[2]

220px Ankylosaurus ribs

Đốt sống lưng cùng với xương sườn của AMNH 5895; lồng ngực rộng có khả năng chứa một hệ tiêu hóa lớn.

Vào năm 1969, nhà cổ sinh người Áo Georg Haas nhận xét dù có hộp sọ lớn, hệ cơ ở đấy của giáp long đuôi chùy khá là yếu. Theo ông, chuyển động hàm chi này bị giới hạn theo chiều lên và xuống, thành ra chúng chỉ có thể ăn thực vật mềm không nhám.[24] Các nghiên cứu sau này về Euoplocephalus cho thấy chuyển động hàm về hai bên cũng như về phía trước là có thể và hộp sọ của chúng cũng có thể chịu được lực đáng kể.[25] Một nghiên cứu năm 2016 về tiếp xúc mặt nhai của các mẫu giáp long đuôi chùy cho thấy khả năng chuyển động hàm về phía sau (dật lùi) được tiến hóa một cách độc lập ở các dòng giáp long đuôi chùy khác nhau, bao gồm những chi khủng long thời Phấn trắng muộn ở Bắc Mỹ như AnkylosaurusEuoplocephalus.[26]

Paraglossalia (phần xương/sụn hình tam giác trong lưỡi) ở một mẫu Pinacosaurus (một chi giáp long khác) cho thấy dấu hiệu của sự căng cơ, được cho là một đặc điểm phổ biến ở các giáp long. Những nhà khoa học làm việc với mẫu này nhận định giáp long phụ thuộc chủ yếu vào cái lưỡi chắc khỏe và xương móng-mang (xương lưỡi) của mình khi ăn, vì răng của chúng thì khá nhỏ và tốc độ thay răng cũng khá chậm. Một số loài kỳ giông hiện đại cũng có dạng xương lưỡi tương tự và lưỡi của chúng thì có thể cuộn lại để lấy thức ăn.[23] Vị trí chếch về phía sau của lỗ mũi, tương tự như ở thằn lằn giun đào hang và rắn mù, có thể là dấu chỉ cho tập tính sục đất, mặc dù Ankylosaurus có lẽ không phải là động vật đào hang. Những đặc điểm này, cộng với việc tốc độ tạo răng thấp ở các giáp long so với những khủng long hông chim khác, cho thấy Ankylosaurus có thể là động vật ăn tạp. Ankylosaurus cũng đã có lẽ (hoặc thay vào đó) thọc đầu vào đất để tìm củ và rễ cây.[3]

Airspaces and senses[sửa | sửa mã nguồn]

Diagram of internal chambers of a skull

Biểu đồ cho thấy các khoang ở trong mũi (AMNH 5895)

In 1977 Polish paleontologist Teresa Maryańska proposed that the complex sinuses and nasal cavities of ankylosaurs may have lightened the weight of the skull, housed a nasal gland, or acted as a chamber for vocal resonance.[2][27] Carpenter rejected these hypotheses, arguing that tetrapod animals make sounds through the larynx, not the nostrils, and that reduction in weight was minimal, as the spaces only accounted for a small percent of the skull volume. He also considered a gland unlikely and noted that the sinuses may not have had any specific function.[2] It has also been suggested that the respiratory passages were used to perform a mammal-like treatment of inhaled air, based on the presence and arrangement of specialized bones.[27]

A 2011 study of the nasal passages of Euoplocephalus supported their function as a heat and water balancing system, noting the extensive blood vessel system and an increased surface area for the mucosa membrane (used for heat and water exchange in modern animals). The researchers also supported the idea of the loops acting as a resonance chamber, comparable to the elongated nasal passages of saiga antelope and the looping trachea of cranes and swans. Reconstructions of the inner ear suggest adaptation to hearing at low frequencies, such as the low-toned resonant sounds possibly produced by the nasal passages. They disputed the possibility that the looping is related to olfaction (sense of smell) as the olfactory region is pushed to the sides of the main airway.[28]

The shape of the nasal chambers of Ankylosaurus indicate that airflow was unidirectional (looping through the lungs during inhalation and exhalation), although it may also have been bidirectional in the posterior nasal chamber, with air directed past the olfactory lobes.[2] The enlarged olfactory region of ankylosaurids indicates a well-developed sense of smell,[28] and the position of the orbits of Ankylosaurus suggest some stereoscopic vision.[2] Though hindwards retraction of the nostrils is seen in aquatic animals and animals with a proboscis, it is unlikely either possibility applies to Ankylosaurus, and though the widely separated nostrils may have allowed for stereo-olfaction (where each nostril senses smells from different directions), as has been proposed for the moose, little is known about this feature.[3]

Chuyển động chi[sửa | sửa mã nguồn]

220px Ankylosaurus scapula

Xương vai và xương quạ của mẫu AMNH 5895

Năm 1978, qua tái dựng hệ cơ chi trước của các giáp long, Coombs nhận định chi trước chịu phần lớn trọng lượng cơ thể và có khả năng tạo lực mạnh, có thể để lấy thức ăn. Theo Coombs, các giáp long có thể là những tay đào bới giỏi, mặc dù với cấu trúc dạng móng guốc ở bàn chân trước, hành vi này là không thường xuyên. Giáp long có thể là những động vật chậm chạp và cục mịch,[29][30] nhưng chúng có khả năng chuyển động nhanh khi cần thiết..[8]

Sinh trưởng[sửa | sửa mã nguồn]

The squamosal horns of the largest Ankylosaurus specimen are blunter than those of the smallest specimen, which is also the case in Euoplocephalus, and this may represent ontogenetic variation (related to growth development).[3] Studies of specimens of Pinacosaurus of different ages found that during ontogenetic development, the ribs of juvenile ankylosaurs fused with their vertebrae. The forelimbs strongly increased in robustness while the hindlimbs did not become larger relative to the rest of the skeleton, further evidence that the arms bore most of the weight. In the cervical half-rings, the underlying bone band developed outgrowths connecting it with the underlying osteoderms, which simultaneously fused to each other.[31] On the skull, the middle bone plates first ossified at the snout and the rear rim, with ossification gradually extending towards the middle regions. On the rest of the body, ossification progressed from the neck backward in the direction of the tail.[32]

Cách tự vệ[sửa | sửa mã nguồn]

Semi-posterior view of Ankylosaurus, with tail club prominent

Hình vẽ Ankylosaurus phô trương cái đuôi của nó

The osteoderms of ankylosaurids were thin in comparison to those of other ankylosaurs, and appear to have been strengthened by randomly distributed cushions of collagen fibers. Structurally similar to Sharpey’s fibres, they were embedded directly into the bone tissue, a feature unique to ankylosaurids. This would have provided the ankylosaurids with an armor covering that was both lightweight and highly durable, being resistant to breakage and penetration by the teeth of predators.[33] The palpebral bones over the eyes may have provided additional protection for them.[34] Carpenter suggested in 1982 that the heavily vascularized armor may also have had a role in thermoregulation as in modern crocodilians.[35]

Vertebra

Đốt sống đuôi của AMNH 5895

The tail club of Ankylosaurus seems to have been an active defensive weapon, capable of producing enough of an impact to break the bones of an assailant. The tendons of the tail were partially ossified and were not very elastic, allowing great force to be transmitted to the club when it was used as a weapon.[2] Coombs suggested in 1979 that several hindlimb muscles would have controlled the swinging of the tail, and that violent thrusts of the club would have been able to break the metatarsal bones of large theropods.[30] A 2009 study estimated that ankylosaurids could swing their tails at 100 degrees laterally, and the mainly cancellous clubs would have had a lowered moment of inertia and been effective weapons. The study also found that while adult ankylosaurid tail clubs were capable of breaking bones, those of juveniles were not. Despite the feasibility of tail-swinging, the researchers could not determine whether ankylosaurids used their clubs for defense against potential predators, in intraspecific combat, or both.[36]

In 1993 Tony Thulborn proposed that the tail club of ankylosaurids primarily acted as a decoy for the head, as he thought the tail too short and inflexible to have an effective reach; the “dummy head” would lure a predator close to the tail, where it could be struck.[37] Carpenter has rejected this idea, as tail club shape is highly variable among ankylosaurids, even in the same genus.[2]

Đặc điểm cổ sinh thái[sửa | sửa mã nguồn]

220px Ankylosaurus map

Những địa điểm mà hóa thạch Ankylosaurus được tìm thấy. Chấm đỏ là mẫu gốc AMNH 5895, các chấm xanh là các mẫu khác.

Tồn tại vào giai đoạn cuối của kỷ Phấn Trắng: tầng Maastricht (khoảng 68 đến 66 triệu năm trước đây), Ankylosaurus là một trong những chi khủng long cuối cùng trên Trái Đất trước khị sự kiện tuyệt chủng Phấn Trắng-Cổ Cận xảy ra. Vết tích còn sót lại của Ankylosaurus (mẫu gốc trong thành hệ Hell Creek, Montana; các mẫu khác thuộc thành hệ Lance, Ferris, Wyoming, thành hệ Scollard, Alberta và thành hệ Frenchman, Saskatchewan) đều có niên đại cuối kỷ Phấn Trắng.[3][38][39] Cách phân bố những hóa thạch này cũng như việc hiếm khi tìm thấy chúng trong lớp trầm tích của các thành hệ kể trên (dù xương dễ hóa thạch hơn ở khu vực này) cho thấy Ankylosaurus có vẻ thích sống ở vùng đất cao hơn là những vùng duyên hải thấp. Cũng có thể về phương diện sinh thái, Ankylosaurus là một chi hiếm gặp. Trong các thành hệ kể trên, người ta còn tìm thấy một giống giáp long khác, một loại giáp long xương kết tạm gán tên là Edmontonia sp. Theo Carpenter, vùng phân bố của nó không trùng với Ankylosaurus. Cho đến nay, chưa tìm thấy hóa thạch nào của hai chi này mà nằm tương đối gần nhau. So với Ankylosaurus, giống Edmontonia sp. này có vẻ thích sống ở những nơi đất thấp. Ngoài ra, cái mõm hẹp hơn cho thấy nó có một khẩu phần ăn kén hơn Ankylosaurus, càng củng cố cho giả thuyết phân chia tổ sinh thái, bất kể vùng phân bố hai chi có trùng hay không.[2][3]

Với trọng tâm cơ thể thấp, Ankylosaurus không có khả năng đốn cây như ở voi hiện đại. Nó cũng như không thể tuốt và nhai vỏ cây. Đặc điểm này cùng với việc khi trưởng thành chúng không tụ tập thành nhóm (dù một số giáp long có tụ tập với nhau khi chúng còn non) cho thấy Ankylosaurus ít có khả năng thay đổi diện mạo của hệ sinh thái mà nó đang sống theo kiểu voi hiện đại làm, dù nó cũng là một động vật lớn ăn thực vật với nhu cầu dinh dưỡng tương đương. Thay vào đấy, vai trò “kỹ sư hệ sinh thái” kiểu như vậy được đảm nhiệm bởi các khủng long mỏ vịt.[3]

220px Hell Creek dinosaurs and pterosaurs by durbed

Quần xã sinh vật thành hệ Hell Creek, Ankylosaurus ở phía sau bên trái

Từ giữa cho đến cuối kỷ Phấn Trắng, Bắc Mỹ bị ra làm hai bởi vùng biển nội hải Western Interior: Laramidia ở phía Tây và Appalachia ở phía Đông. Các thành hệ Hell Creek, Lance và Scollard thuộc bờ Tây của đường biển này. Đây là một vùng đồng bằng duyên hải rộng lớn, trải dài từ ven biển cho tới dãy núi Rocky mới hình thành. Đá bùn và sa thạch là thành phần chủ yếu, kết quả của môi sinh bãi bồi.[40][41][42] Vùng mà Ankylosaurus và các chi giáp long kỷ Phấn Trắng muộn khác được tìm thấy có khí hậu ôn đới/cận nhiệt gió mùa, thi thoảng có mưa, bão nhiệt đới và cháy rừng.[26] Thành hệ Hell Creek có nhiều loại thực vật phát triển, chủ yếu là thực vật có hoa, xen lẫn là các loại thực vật ngành thông, dương xỉ và thực vật lớp tuế. Sự giàu có về hóa thạch lá tại hàng tá vị trí khác nhau cho thấy khu vực này được phủ phần lớn bởi cây nhỏ.[43] Ankylosaurus sống cạnh nhiều loại khủng long khác như chuẩn giác long Triceratops, Torosaurus, thescelosaurid Thescelosaurus, khủng long mỏ vịt Edmontosaurus, khủng long đầu dày Pachycephalosaurus, khủng long chân thú Struthiomimus, Ornithomimus, Troodon, Tyrannosaurus cùng một giống giáp long xương kết chưa xác định khác.[39][44]

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

  • Khủng long bạo chúa
  • Pachycephalosaurus
  • Danh sách khủng long

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^

    “Ankylosaurus”. Merriam-Webster Dictionary.

  2. ^ a ă â b c d đ e ê g h i k l m n o ô ơ p q r s t u ư v x y Carpenter, K. (2004). “Redescription of Ankylosaurus magniventris Brown 1908 (Ankylosauridae) from the Upper Cretaceous of the Western Interior of North America”. Canadian Journal of Earth Sciences. 41 (8): 961–86. Bibcode:2004CaJES..41..961C. doi:10.1139/e04-043.
  3. ^ a ă â b c d đ e ê g h i k l m n o ô ơ Arbour, V.M.; Mallon, J.C. (2017). “Unusual cranial and postcranial anatomy in the archetypal ankylosaur Ankylosaurus magniventris”. FACETS. 2 (2): 764–794. doi:10.1139/facets-2017-0063.
  4. ^ Benson, R. B. J.; Campione, N. E.; Carrano, M. T.; Mannion, P. D.; Sullivan, C.; Evans, D. C.; và đồng nghiệp (2014). “Rates of Dinosaur Body Mass Evolution Indicate 170 Million Years of Sustained Ecological Innovation on the Avian Stem Lineage”. PLoS Biol. 12 (5): e1001853. doi:10.1371/journal.pbio.1001853. PMC 4011683. PMID 24802911. Đã bỏ qua tham số không rõ |displayauthors= (gợi ý |display-authors=) (trợ giúp); “Và đồng nghiệp” được ghi trong: |first5= (trợ giúp); “Và đồng nghiệp” được ghi trong: |author6= (trợ giúp)
  5. ^ a ă â b Arbour, V. M.; Currie, P. J. (2015). “Systematics, phylogeny and palaeobiogeography of the ankylosaurid dinosaurs”. Journal of Systematic Palaeontology. 14 (5): 1–60. doi:10.1080/14772019.2015.1059985.
  6. ^ a ă Coombs, W. (1990). “Teeth and taxonomy in ankylosaurs”. Dinosaur systematics: Approaches and perspectives. Cambridge University Press. tr. 269–79. ISBN 978-0-521-43810-0. Đã bỏ qua tham số không rõ |editors= (gợi ý |editor=) (trợ giúp)
  7. ^ a ă Carpenter, K. (1982). “Baby dinosaurs from the Late Cretaceous Lance and Hell Creek formations and a description of a new species of theropod”. Rocky Mountain Geology. 20 (2): 123–134.
  8. ^ a ă Coombs, W. P. (1978). “Theoretical aspects of cursorial adaptations in dinosaurs”. The Quarterly Review of Biology. 53 (4): 393–418. doi:10.1086/410790.
  9. ^ Arbour, V. M.; Currie, P. J. (2015). “Ankylosaurid dinosaur tail clubs evolved through stepwise acquisition of key features”. Journal of Anatomy. 227 (4): 514–23. doi:10.1111/joa.12363. PMC 4580109. PMID 26332595.
  10. ^ a ă â Brown, B. (1908). “The Ankylosauridae, a new family of armored dinosaurs from the Upper Cretaceous”. Bulletin of the American Museum of Natural History. 24: 187–201. hdl:2246/1435.
  11. ^ Creisler, B. (ngày 7 tháng 7 năm 2003). “Dinosauria Translation and Pronunciation Guide A”. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 8 năm 2010. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2010.
  12. ^ Liddell, H. G.; Scott, R. (1980) [1871]. A Greek-English Lexicon . Oxford University Press. tr. 5. ISBN 978-0-19-910207-5. Lỗi chú thích: Thẻ <ref> không hợp lệ: tên “Oxford” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác Lỗi chú thích: Thẻ <ref> không hợp lệ: tên “Oxford” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác
  13. ^ a ă Glut, D. F. (1997). “Ankylosaurus”. Dinosaurs, the encyclopedia. McFarland & Company, Inc. Publishers. tr. 141–143. ISBN 978-0-375-82419-7.
  14. ^ a ă Coombs, W. (1978). “The families of the ornithischian dinosaur order Ankylosauria” (PDF). Journal of Paleontology. 21 (1): 143–170. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 8 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2018.
  15. ^ Naish, D. (2009). The Great Dinosaur Discoveries. London: A & C Black Publishers LTD. tr. 58–59. ISBN 978-1408119068.
  16. ^ Williston, S. W. (1908). “Review: The Ankylosauridae”. The American Naturalist. 42 (501): 629–30. doi:10.1086/278987. JSTOR 2455817.
  17. ^ Carpenter, K. (2001). “Chapter 21: Phylogenetic Analysis of the Ankylosauria”. Trong Carpenter, K. (biên tập). The Armored Dinosaurs. tr. 454–83. ISBN 0-253-33964-2.
  18. ^ Osborn, H. F. (1905). “Tyrannosaurus and other Cretaceous carnivorous dinosaurs”. Bulletin of the AMNH. American Museum of Natural History. 21 (14): 259–265. hdl:2246/1464.
  19. ^ Osborn, H. F. (1923). “Two Lower Cretaceous dinosaurs of Mongolia”. American Museum Novitates. 95: 1–10. hdl:2246/3267.
  20. ^ a ă Thompson, R. S.; Parish, J. C.; Maidment, S. C. R.; Barrett, P. M. (2012). “Phylogeny of the ankylosaurian dinosaurs (Ornithischia: Thyreophora)”. Journal of Systematic Palaeontology. 10 (2): 301–312. doi:10.1080/14772019.2011.569091.
  21. ^ Arbour, V.M.; Currie, P.J.; Badamgarav, D. (2014). “The ankylosaurid dinosaurs of the Upper Cretaceous Baruungoyot and Nemegt formations of Mongolia”. Zoological Journal of the Linnean Society. 172 (3): 631–652. doi:10.1111/zoj.12185.
  22. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Ősi2
  23. ^ a ă Hill, R. V.; D’Emic, M. D.; Bever, G. S.; Norell, M. A. (2015). “A complex hyobranchial apparatus in a Cretaceous dinosaur and the antiquity of avian paraglossalia”. Zoological Journal of the Linnean Society. 175 (4): 892–909. doi:10.1111/zoj.12293.
  24. ^ Haas, G. (1969). “On the jaw musculature of ankylosaurs”. American Museum Novitates. 2399: 1–11. hdl:2246/2609.
  25. ^ Rybczynski, N.; Vickaryous, M. K. (2001). “Chapter 14: Evidence of Complex Jaw Movement in the Late Cretaceous Ankylosaurid, Euoplocephalus tutus (Dinosauria: Thyreophora)”. Trong K. Carpenter (biên tập). The Armored Dinosaurs. Indiana University Press. tr. 299–317. ISBN 978-0-253-33964-5.
  26. ^ a ă Ősi, A.; Prondvai, E.; Mallon, J.; Bodor, E. R. (2016). “Diversity and convergences in the evolution of feeding adaptations in ankylosaurs (Dinosauria: Ornithischia)”. Historical Biology. 29 (4): 1–32. doi:10.1080/08912963.2016.1208194.
  27. ^ a ă Maryanska, T. (1977). “Ankylosauridae (Dinosauria) from Mongolia” (PDF). Palaeontologia polonica. 37: 85–151.
  28. ^ a ă Miyashita, T., Arbour V. M.; Witmer L. M.; Currie, P. J. (2011). “The internal cranial morphology of an armoured dinosaur Euoplocephalus corroborated by X-ray computed tomographic reconstruction” (PDF). Journal of Anatomy. 219 (6): 661–75. doi:10.1111/j.1469-7580.2011.01427.x. PMC 3237876. PMID 21954840. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2015.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  29. ^ Coombs, W. (1978). “Forelimb muscles of the Ankylosauria (Reptilia, Ornithischia)”. Journal of Paleontology. 52 (3): 642–57. JSTOR 1303969.
  30. ^ a ă Coombs, W. (1979). “Osteology and myology of the hindlimb in the Ankylosauria (Reptillia, Ornithischia)”. Journal of Paleontology. 53 (3): 666–84. JSTOR 1304004.
  31. ^ Burns, M; Tumanova, T; Currie, P (2015). “Postcrania of juvenile Pinacosaurus grangeri (Ornithischia: Ankylosauria) from the Upper Cretaceous Alagteeg Formation, Alag Teeg, Mongolia: implications for ontogenetic allometry in ankylosaurs”. Journal of Paleontology. 89 (1): 168–182. doi:10.1017/jpa.2014.14.
  32. ^ Currie, P. J.; Badamgarav, D.; Koppelhus, E. B.; Sissons, R.; Vickaryous, M. K. (2011). “Hands, feet, and behaviour in Pinacosaurus (Dinosauria: Ankylosauridae)”. Acta Palaeontologica Polonica. 56 (3): 489–504. doi:10.4202/app.2010.0055.
  33. ^ Scheyer, T. M.; Sander, P. M. (2004). “Histology of ankylosaur osteoderms: implications for systematics and function”. Journal of Vertebrate Paleontology. 24 (4): 874–93. doi:10.1671/0272-4634(2004)024[0874:hoaoif]2.0.co;2. JSTOR 4524782.
  34. ^ Coombs W. (1972). “The Bony Eyelid of Euoplocephalus (Reptilia, Ornithischia)”. Journal of Paleontology. 46 (5): 637–50. JSTOR 1303019..
  35. ^ Carpenter, K. (1982). “Skeletal and dermal armor reconstruction of Euoplocephalus tutus (Ornithischia: Ankylosauridae) from the Late Cretaceous Oldman Formation of Alberta”. Canadian Journal of Earth Sciences. 19 (4): 689–97. Bibcode:1982CaJES..19..689C. doi:10.1139/e82-058.
  36. ^ Arbour, V. M. (2009). “Estimating impact forces of tail club strikes by ankylosaurid dinosaurs”. PLoS ONE. 4 (8): e6738. Bibcode:2009PLoSO…4.6738A. doi:10.1371/journal.pone.0006738. PMC 2726940. PMID 19707581.
  37. ^ Thulborn, T. (1993). “Mimicry in ankylosaurid dinosaurs”. Record of the South Australian Museum. 27: 151–58.
  38. ^ Vickaryous, M. K., Maryanska, T.; Weishampel, D. B. (2004). “Ankylosauria”. Trong Weishampel, D. B.; Dodson, P.; Osmólska, H. (biên tập). The Dinosauria. University of California Press. tr. 363–92. ISBN 0-520-24209-2.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  39. ^ a ă Weishampel, D. B.; Barrett, P. M.; Coria, R. A.; Le Loeuff, J.; Xu X.; Zhao X.; Sahni, A.; Gomani, E. M. P.; Noto, C. R. (2004). “Dinosaur Distribution”. Trong Weishampel, D. B.; Dodson, P.; Osmolska, H.. (biên tập). The Dinosauria (2nd). University of California Press. tr. 517–606. ISBN 0-520-24209-2.
  40. ^ Lofgren, D. F. (1997). “Hell Creek Formation”. Trong Currie, P.J.; Padian, K. (biên tập). The Encyclopedia of Dinosaurs. Academic Press. tr. 302–03. ISBN 978-0-12-226810-6.
  41. ^ Breithaupt, B. H. (1997). “Lance Formation”. The Encyclopedia of Dinosaurs. Academic Press. tr. 394–95. ISBN 978-0-12-226810-6. Đã bỏ qua tham số không rõ |editors= (gợi ý |editor=) (trợ giúp)
  42. ^ Eberth, D. A. (1997). “Edmonton Group”. Trong Currie, P. J.; Padian, K. (biên tập). The Encyclopedia of Dinosaurs. Academic Press. tr. 199–204. ISBN 978-0-12-226810-6.
  43. ^ Johnson, K. R. (1997). “Hell Creek Flora”. Trong Currie, P. J.; Padian, K. (biên tập). The Encyclopedia of Dinosaurs. Academic Press. tr. 300–02. ISBN 978-0-12-226810-6.
  44. ^ Bigelow, P. “Cretaceous ‘Hell Creek Faunal Facies’; Late Maastrichtian”. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2014.

Lỗi chú thích: Thẻ <ref> được định nghĩa trong <references> có tên “carpenter2004” không có nội dung.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref> được định nghĩa trong <references> có tên “coombs” không có nội dung.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref> được định nghĩa trong <references> có tên “systematics ankylosaurid” không có nội dung.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref> được định nghĩa trong <references> có tên “carpenter1982b” không có nội dung.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref> được định nghĩa trong <references> có tên “brown1908” không có nội dung.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref> được định nghĩa trong <references> có tên “Coombs1978” không có nội dung.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref> được định nghĩa trong <references> có tên “osborn1923” không có nội dung.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref> được định nghĩa trong <references> có tên “thompson” không có nội dung.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref> được định nghĩa trong <references> có tên “Arbour2014II” không có nội dung.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref> được định nghĩa trong <references> có tên “digger” không có nội dung.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref> được định nghĩa trong <references> có tên “hindlimb” không có nội dung.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref> được định nghĩa trong <references> có tên “tongue” không có nội dung.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref> được định nghĩa trong <references> có tên “Hans1969” không có nội dung.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref> được định nghĩa trong <references> có tên “Rybzynski2001” không có nội dung.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref> được định nghĩa trong <references> có tên “vickaryousetal2004” không có nội dung.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref> được định nghĩa trong <references> có tên “WETAL04” không có nội dung.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref> được định nghĩa trong <references> có tên “lofgren1997” không có nội dung.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref> được định nghĩa trong <references> có tên “breithaupt1997” không có nội dung.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref> được định nghĩa trong <references> có tên “eberth1997” không có nội dung.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref> được định nghĩa trong <references> có tên “johnson1997” không có nội dung.

Lỗi chú thích: Thẻ <ref> được định nghĩa trong <references> có tên “HCFF” không có nội dung.

Biểu đồ phân nhánh[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a ă â b c d Arbour, Victoria M.; Currie, Philip J. (3 tháng 5 năm 2016). “Systematics, phylogeny and palaeobiogeography of the ankylosaurid dinosaurs”. Journal of Systematic Palaeontology 14 (5): 385–444. ISSN 1477-2019. doi:10.1080/14772019.2015.1059985

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

  • 14px Wikispecies logo.svg Dữ liệu liên quan tới Ankylosaurus tại Wikispecies
  • 12px Commons logo.svg Phương tiện liên quan tới Ankylosaurus tại Wikimedia Commons


Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Ankylosaurus&oldid=64585920”

Từ khóa: Ankylosaurus, Ankylosaurus, Ankylosaurus

LADIGI – Công ty dịch vụ SEO LADIGI giá rẻ, SEO từ khóa, SEO tổng thể cam kết lên Top Google uy tín chuyên nghiệp, an toàn, hiệu quả.

Nguồn: Wikipedia

Scores: 4.6 (143 votes)

100 lần tự tìm hiểu cũng không bằng 1 lần được tư vấn