Cảm nhận đoạn: Còn xa lắm mới đến cái thác dưới… có giỏi thì tiến gần vào

Cảm nhận đoạn: còn xa lắm mới đến cái thác dưới… có giỏi thì tiến gần vào

Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại, réo to mãi lên. Tiếng thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. Tới cái thác rồi. Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân giời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này. Mặt sông rung tít lên như tuyếc-bin thủy điện nơi đáy hầm đập. Mặt sông trắng xóa càng làm bật rõ lên những hòn những tảng mới trông tưởng như nó đứng nó ngồi nó nằm tùy theo sở thích tự động của đá to đá bé. Nhưng hình như sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông. Đám tảng đám hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền, một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn. Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá trông như là sơ hở, nhưng chính là hai đứa giữ vai trò dụ cái thuyền đối phương đi vào sâu nữa, vào tận tuyến giữa rồi nước sóng luồng mới đánh khuýp quật vu hồi lại. Nếu lọt vào đây rồi mà cái thuyền du kích ấy vẫn chọc thủng được tuyến hai, thì nhiệm vụ của những boong-ke chìm và pháo đài đá nổi ở tuyến ba là phải đánh tan cái thuyền lọt lưới đá tuyến trên, phải tiêu diệt thuyền trưởng cùng tất cả thủy thủ ngay ở chân thác. Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới. Phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá, những hòn đá bệ vệ oai phong lẫm liệt. Một hòn ấy trông nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến. Một hòn khác lùi lại một chút và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào. ..

(Người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân)

Anh/ chị phân tích hình tượng sông Đà ở đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét phong cách tài hoa, uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân.

 

[​IMG]

Là nhà văn của chủ nghĩa “xê dịch”, luôn luôn có ý thức “thay thực đơn cho giác quan”, Nguyễn Tuân đã tìm đến với sông Đà – con sông Tây Bắc với dòng chảy đầy cá tính:

Chúng thủy giai đông tẩu

Đà giang độc bắc lưu

(Mọi con sông đều chảy về đông

Riêng sông Đà ngược lên phía bắc)

Phải chăng chính dòng chảy đầy cá tính chẳng giống với “chúng thủy” của Đà giang đã thu hút cái nhìn của người nghệ sĩ, để rồi người nghệ sĩ ấy say mê nó, tạc nó vào trang văn của mình như tạc một công trình mỹ thuật tuyệt vời của tạo hóa với hai vẻ đẹp đầy ấn tượng: Hùng vĩ, dữ dội và đằm thắm, trữ tình. Con sông của tạo hóa vốn đã độc lạ, con sông chảy qua trang văn Nguyễn Tuân còn độc lạ gấp nhiều lần. Với “Người lái đò sông Đà”, ngòi bút Nguyễn Tuân như “tung hoành sảng khoái giữa dòng thác cuồn cuộn của ngôn từ, buộc ngôn từ dựng lên ghềnh thác, buộc nhịp điệu dựng lên sóng gió” khiến cho sự hung bạo dữ dằn của sông Đà khúc thượng nguồn hiện lên thật sống động và truyền cảm. Đoạn văn: “Còn xa lắm mới đến cái thác dưới [..] Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới” là minh chứng sinh động điều đó.

Tùy bút “Sông Đà” là thành quả chuyến đi thực tế gian khổ và hào hùng của Nguyễn Tuân đến miền đất Tây Bắc xa xôi những năm 1958- 1960. Chuyến đi không chỉ nhằm thỏa mãn niềm khát khao xê dịch, mà còn là cơ hội để nhà văn tìm kiếm “chất vàng” trong vẻ đẹp hùng vĩ và thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc, phát hiện “thứ vàng mười đã qua thử lửa” của tâm hồn con người Tây Bắc trong cuộc sống lao động hàng ngày của họ.

Nguyễn Tuân thích những gì gây cảm giác mãnh liệt, cái đẹp trong văn ông phải là cái đẹp tuyệt mỹ, say đắm, còn dữ dội phải đến mức khủng khiếp, ghê sợ. Và con sông Đà đã bị chi phối bởi quan niệm nghệ thuật này, nên qua sự thể hiện của nhà văn, dường như không có con sông nào có thể dữ dội, hung bạo hơn dòng chảy của sông Đà.

Sông Đà không chỉ hùng vĩ, dữ dội ở cảnh “đá bờ sông dựng vách thành”, cảnh mặt ghềnh Hát Loóng “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm”, cảnh những cái hút nước “xoáy tít đáy”.. mà còn nguy hiểm ở trùng trùng điệp điệp những thác nước sông Đà.

Sông Đà có cả thảy bảy mươi ba cái thác như bảy mươi ba cạm bẫy luôn rình rập và sẵn sàng ăn chết bất cứ chiếc thuyền nào đi ngang qua đó. Sự chất chồng, liên tiếp của thác dữ sông Đà đã từng đi vào câu ca xưa:

“Đường lên Mường Lễ bao xa

Trăm bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh”

Trong đoạn văn trên, ngòi bút của Nguyễn Tuân chỉ dừng lại ở miêu tả một dòng thác cụ thể mà như cộng hưởng sự hùng vĩ, hiểm nguy của cả bảy mươi ba con thác khác cộng lại.

Say mê khám phá con sông, Nguyễn Tuân dõi theo dòng thác hùng vĩ của sông Đà ngay từ khi nó chưa xuất hiện. Dòng thác báo hiệu sự có mặt của mình bằng âm thanh từ xa vọng lại:

Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng..”

Nguyễn Tuân đã miêu tả âm thanh của tiếng nước thác bằng một hệ thống từ ngữ phong phú, truyền cảm. Cùng với nghệ thuật nhân hóa được sử dụng một cách đắc địa, nhà văn đã truyền hồn sống cho dòng sông, biến thác nước sông Đà thực sự trở thành một loài thủy quái đang giận dữ, gầm gào, đe dọa con người ngay cả khi nó chưa xuất hiện. Khi thì nhà văn nghe thấy nó như “oán trách gì”, rồi lại như là “van xin”, khi lại thấy nó đang “khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo”.. Nhà văn đã tung ra hàng loạt những ngôn từ sống động để miêu tả âm thanh thác nước theo những cung bậc tăng dần của cảm xúc giận dữ. Đó vừa là cách nhà văn nói đến khoảng cách rút ngắn dần khi tiếp cận con sông, vừa là cách tạo ấn tượng về sự dữ dội của sông Đà và tăng dần cảm giác hồi hộp, sợ hãi trong tâm trí người đọc.

Đặc sắc nhất là những phép so sánh kỳ thú trong một câu văn dài đầy ắp những hình ảnh dữ dội “Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng..”. Âm thanh thác nước bất ngờ được phóng to hết cỡ “rống lên” và được so sánh với âm thanh của tiếng hàng ngàn con trâu mộng.. gợi ấn tượng về khúc nhạc hùng tráng của thiên nhiên đang ở đỉnh điểm của sự phấn khích man dại và cuồng loạn. Thật là một cảnh trí có sức hấp dẫn kỳ lạ đối với người thưởng văn bởi cả nỗi sợ hãi và niềm say mê, khao khát chiêm ngưỡng.

Là một kẻ thích chơi ngông, nhà văn đã thể hiện sự tài hoa độc đáo của mình khi lấy hình ảnh gợi tả âm thanh, lấy lửa tả nước, lấy rừng tả sông, đặt những hình ảnh tương phản vốn rất “kị” nhau trong một trường liên tưởng độc đáo, thú vị. Vậy mà hiệu quả của nó thật bất ngờ, nhà văn đã khiến âm thanh của thác nước không chỉ được cảm nhận bằng thính giác, không chỉ được hình dung qua trí tưởng tượng mà còn hiện ra trong những ấn tuợng đặc biệt sống động của xúc giác, thị giác. Nguyễn Tuân phải chăng đã lục lọi đến tận cùng kho cảm giác và liên tưởng phong phú, bộn bề, nhằm tìm ra những chữ nghĩa chính xác nhất, có khả năng động người đọc nhiều nhất?

Khi cái thác hiện ra trước mắt, nhà văn như reo lên đầy ngờ ngàng, thích thú: “Tới cái thác rồi” – cảm giác gặp lại sông Đà hệt như gặp lại “cố nhân” vậy. Vẫn nhìn sông Đà với con mắt say mê, Nguyễn Tuân đưa sông Đà vào trang viết với vẻ đẹp kì vĩ: “Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá” . Tính từ “trắng xóa” vừa chính xác vừa tạo hình gây ấn tượng về sự trào sôi dữ dội của dàn giao hưởng của sóng, gió, bọt nước.. Đồng thời gợi tả điệp trùng những con sóng trắng cuồn cuộn xô nhau trên mặt nước mênh mông. Cùng với hình ảnh “chân trời đá” – đá chất chồng lên đá, câu văn miêu tả của Nguyễn Tuân đã làm hiện ra sự hùng vĩ tới choáng ngợp của thác đá sông Đà.

Bút lực của Nguyễn Tuân đến đây kể như đã tài hoa, phóng túng tột đỉnh. Nhưng thật bất ngờ, càng dõi theo thiên tùy bút có một không hai này, ta càng thấy sự thăng hoa trong ngòi bút miêu tả và sự phong phú trong trí tưởng tượng của bậc kì tài ngôn ngữ Nguyễn Tuân.

Trong trí tưởng tượng của Nguyễn Tuân, dòng sông Tây Bắc khủng khiếp nhất, gây ám ảnh nhất với con người chính là thạch trận đá sông Đà. Ở phương diện này, sông Đà thực sự mang “diện mạo và tâm địa của thứ kẻ thù số một” đối với con người.

Bút pháp nhân hóa đã trở thành bút pháp chủ đạo có tác dụng truyền hồn sống cho dòng sông. Qua sự cảm nhận của nhà văn, loài thủy quái hung tợn mang tên Đà giang mang tâm địa vô cùng nham hiểm và xảo quyệt. Nó đã bày ra cả một trận đồ bát quái với rất nhiều cửa tử:

“Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc thuyền nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền” .

Sử dụng thuật ngữ của quân sự, Nguyễn Tuân đã gợi dậy cái sự bí ẩn và vô cùng hiểm ác của đá trên lòng sông Đà. Đá ở đây được miêu tả trong thời gian vĩnh hằng của thiên nhiên “ngàn năm”, khi thì chúng ẩn mình “mai phục”, khi dữ dằn, đột ngột hiện ra sau cái dập dềnh của sóng để “nhổm cả dậy vồ lấy thuyền”.

Để tận tả đá sông Đà, Nguyễn Tuân còn sử dụng rất nhiều nhân hóa, nhờ đó, người đọc có thể hình dung ra từng diện mạo con người trong những hình thù đá vô tri. Tùy theo hình dạng, kích thước của đá và cách nhìn của nhà văn mà đá sông Đà được miêu tả trong những cảm nhận khác nhau, khi thì “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm méo mó” bởi sự gồ ghề, lúc to lớn qua dáng “bệ vệ oai phong lẫm liệt”, khi này là tảng đá với những cạnh sắc nhọn hất ngược lên đem đến cảm nhận về sự “xấc xược” trong cái “hất hàm” thách thức, lúc khác lại là tảng đá nhẵn xanh xuôi chảy từ trên xuống qua hình ảnh “thằng đá tướng.. tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng..”. Nguyễn Tuân đã dùng hết sức mạnh điêu khắc của ngôn từ để tạo diện mạo và linh hồn cho từng thớ đá vô tri. Đọc tới đây, có lẽ không ít độc giả phải ngậm ngùi vì vốn ngôn từ của mình còn quá ít ỏi, và trí tưởng tượng của mình còn quá nghèo nàn so với bậc kì tài Nguyễn Tuân.

Cái độc đáo trong tưởng tượng của Nguyễn Tuân là ông hình dung sông Đà như giao việc cho từng hòn đá để sẵn sàng lật ngửa bụng bất cứ con thuyền nào qua đây. Người đọc thực sự thấy thích thú khi chứng kiến sự “bày binh bố trận” của những hòn đá “nhăn nhúm méo mó” kia. “Đám tảng, đám hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền” . Trận địa đá gồm “hàng tiền vệ, có hai hòn canh cửa đá trông như là sơ hở” để “dụ đối phương đi vào sâu nữa” rồi “đánh khuýp quật vu hồi lại” . Nếu chọc thủng được tuyến hai thì nhiệm vụ của những bong ke chìm và pháo đài đá nổi ở tuyến ba phải đánh tan cái thuyền lọt lưới đá tuyến trên. Nguyễn Tuân đã sử dụng một loạt những thuật ngữ của quân sự, võ thuật, thể thao, cùng hệ thống dày đặc những động từ mang sắc thái nhân hóa, đặt trong những câu văn ngắn, dồn dập.. khiến lòng sông Đà quãng này không khác một chiến trường với những trận “hỗn chiến” ác liệt giữa con người với thiên nhiên. Phải đọc đến đoạn ông lái đò gồng mình chiến đấu với con sông qua các cửa sinh, cửa tử, ta mới thấy hết sự dữ dội, hung hiểm của sông Đà.

Sự uyên bác về kiến thức, sự cầu kì, tỉ mỉ trong từng câu chữ, sử dụng tối ưu “phép thuật” của nghệ thuật nhân hóa cùng những từ láy gợi hình đầy sức biểu cảm, những tính từ chỉ tính cách, thái độ, cảm xúc.. đã giúp Nguyễn Tuân làm hiện lên một trong những phần khủng khiếp nhất của sông Đà, đó là nước thác và thạch trận đá trên dòng sông. Kết hợp với sóng, gió và nước thác, đá sông Đà không im lìm như đặc tính vốn có tự ngàn năm mà sống động, dữ dằn, thét gào, ác hiểm khiến đá sông Đà không chỉ lộ “diện mạo” mà cả “tâm địa” của “thứ kẻ thù số một” của con người. Như vậy, với đoạn văn này nói riêng và bài tùy bút nói chung, Nguyễn Tuân đã thành công trong việc lạ hóa thiên nhiên, làm cho sông Đà trở nên sống động khác thường. Khám phá vẻ đẹp sông Đà trong trang văn Nguyễn Tuân, ta không chỉ thêm yêu mến Nguyễn tuân ở tấm lòng tha thiết với quê hương đất nước mà còn thêm thấm thía chân lí nghệ thuật: “Thế giới không phải được tạo lập một lần mà mỗi một lần người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện là một lần thế giới lại được tạo lập” thêm lần nữa.

Hình tượng sông Đà trong đoạn văn trên đã thể hiện sự độc đáo trong quan niệm về cái đẹp của Nguyễn Tuân sau cách mạng. Sau cách mạng, Nguyễn Tuân vẫn là người say mê khao khát cái Đẹp, nhưng ông đã biết tìm kiếm và khai thác Cái Đẹp trong lòng cuộc sống của dân tộc. Không phải là những nhân vật mang tính chất lí tưởng hóa của “Vang bóng một thời”, Nguyễn Tuân tìm vẻ đẹp trong dáng hình sông núi, trong những con người đời thường bình dị. Bởi thế, ông đã tìm lên Tây Bắc, tìm đến sông Đà.

Dàn ý phân tích đoạn: Còn xa lắm mới đến cái thác dưới…. có giỏi thì tiến vào

  1. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận về một đoạn văn xuôi

Có đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài. Mở bài nêu được vấn đề, thân bài triển khai được vấn đề, kết bài kết luận được vấn đề.

  1. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận

Hình tượng sông Đà ở đoạn trích; phong cách tài hoa, uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân.

  1. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm; thể hiện sự cảm nhận sâu sắc và vận dụng tốt các thao tác lập luận; kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng. Cụ thể:

3.1.Mở bài: 0.25

– Nguyễn Tuân là nhà văn tiêu biểu của văn xuôi hiện đại Việt Nam.

– Tuỳ bút Người lái đò sông Đà là tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng Tám 1945.

-Vẻ đẹp dòng sông Đà thể hiện rõ phong cách tài hoa uyên bác của Nguyễn Tuân.

3.2.Thân bài: 3.50

  1. Khái quát về tuỳ bút, đoạn trích: 0.25 đ

– Về hoàn cảnh sáng tác, xuất xứ, nội dung, nghệ thuật của tác phẩm;

– Vị trí, nội dung đoạn trích.

  1. Cảm nhận vẻ đẹp của sông Đà trong đoạn trích: 2.5đ

– Về nội dung: (2.0đ)

+Nước thác trên Sông Đà: Nguyễn Tuân đã buộc sự dữ dội, nham hiểm của sông Đà phải hiện lên thành hình và gào thét bằng trăm ngàn âm thanh. Sự liên tưởng của tác giả độc đáo ở chỗ: âm thanh của tự nhiên (tiếng thác) được đổi thành tiếng gầm đau đớn, lồng lộn của hàng ngàn con trâu mộng da cháy bùng bùng; và còn tài tình ở chỗ tác giả đã đem thủy (thác nước) so sánh với hỏa (rừng lửa). Sức mạnh hoang dã của tự nhiên qua tài đối sánh, qua trí tưởng tượng phong phú, độc lạ của Nguyễn Tuân đã gây ấn tượng trong người đọc về sự dữ dội, y như một trận động rừng hay cháy rừng khủng khiếp của nước thác trên sông Đà.

+ Thạch trận trên Sông Đà:

++Đội quân thạch giang trên Sông Đà khá hùng hậu, cả một chân trời đá, ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông.

++Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, mỗi hòn đá như có một gương mặt riêng: hòn thì ngổ ngáo, hiếu chiến (mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền), hòn thì ngỗ ngược, hòn thì nhăn nhúm méo mó; mỗi hòn một dáng (nó đứng nó ngồi nó nằm tùy theo sở thích tự động của đá to đá bé); mỗi hòn một nhiệm vụ (đám tảng đám hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông; hai hòn canh một cửa đá trông như là sơ hở, (…) giữ vai trò dụ cái thuyền đối phương đi vào sâu nữa; những boong-ke chìm và pháo đài đá nổi (…) phải đánh tan cái thuyền lọt lưới đá tuyến trên, phải tiêu diệt tất cả thuyền trưởng thủy thủ ngay ở chân thác.).

++Để khắc họa từng gương mặt riêng của đá thác Sông Đà, tưởng như Nguyễn Tuân đã phải lao động cật lực, khổ công quan sát và tung ra trường từ vựng hết sức giàu có, phong phú về hành động (nhổm cả dậy, vồ lấy, chặn ngang, dụ, đánh khuýp quật vu hồi, đánh tan, tiêu diệt), tính cách (ngỗ ngược), hình sắc (nhăn nhúm, méo mó, to, bé), tư thế (đứng, ngồi, nằm).

+Sự phối hợp rất chặt chẽ giữa nước thác và đá thác trên sông:

++Từ xa, tiếng nước thác réo gần mãi lại réo to mãi lên, rồi rống lên vừa như phô trương sức mạnh vừa như uy hiếp, đe dọa con thuyền sắp qua thác nước Sông Đà.

++Sau đó, đến thác, một chân trời đá hiện hình và bày thạch trận trên sông. Đội quân thạch giang đủ loại lớn bé, đủ tư thế ngồi, nằm, đứng nhưng hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó và hiếu chiến. Mỗi hòn đá đều nhận đúng vị trí: Đám đá tảng thì chia làm ba hàng chặn ngang trên sông; hàng tiền vệ có hai hòn canh cửa; ở tuyến ba là những boong-ke chìm và pháo đài đá nổi. Với mỗi vị trí là một nhiệm vụ: Đám đá tảng sẽ ăn chết cái thuyền đơn độc; hai hòn đá canh ở hàng tiền vệ sẽ dụ cái thuyền đi vào sâu nữa; những boong-ke chìm và pháo đài đá nổi phải đánh tan cái thuyền lọt lưới đá tuyến trên, phải tiêu diệt tất cả thuyền trưởng thủy thủ ngay ở chân thác. Nhiệm vụ nào của đám thạch giang trên Sông Đà cũng hung hãn, quyết liệt, cũng thể hiện một quyết tâm tiêu diệt con thuyền đối phương đến cùng để giành chiến thắng.

+ Nhận xét: Đoạn trích là khúc ca ca ngợi vẻ đẹp hung bạo, hùng vĩ của sông Đà. Đó chính là sức mạnh của thiên nhiên mà con người cần chinh phục. Đó cũng chính là niềm tự hào của tác giả về Tổ quốc hùng vĩ, giàu đẹp.

– Về nghệ thuật: ( 0.5)

+Nguyễn Tuân đã dùng hết bút lực để dường như thi tài với tạo hoá. Ông dùng những câu góc cạnh, giàu tính tạo hình, những câu nhiều động từ mạnh nối tiếp nhau, dồn dập;

+Nhà văn sử dụng lối nói ví von, ẩn dụ, tượng trưng, liên tưởng đầy bất ngờ, chính xác, thú vị.

+Nhà văn đã vận dụng hiểu biết của nhiều ngành khác nhau: địa lý,
lịch sử, hội họa, văn chương và những tri thức về tự nhiên để khắc họa vẻ đẹp của sông Đà.

  1. Nhận xét phong cách tài hoa, uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân. 0.75đ

– Biểu hiện phong cách tài hoa, uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân: Ông không chấp nhận sự sáo mòn. Ông luôn tìm kiếm những cách thức thể hiện, những đối tượng mới mẻ. Nhà văn luôn tiếp cận sự vật ở phương diện văn hóa thẩm mĩ, có ấn tượng với những sự vật gây cảm giác mạnh (Sông Đà là một sinh thể như vậy). Tác giả bộc lộ sự tinh vi trong mĩ cảm với trường liên tưởng phong phú, ngôn ngữ vừa phong phú vừa tinh tế.Một cái tôi uyên bác khi huy động mọi kiến thức thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau để khắc họa hình tượng sông Đà.

Ý nghĩa:  Qua phong cách tài hoa, uyên bác, Nguyễn Tuân là là nhà văn có ý thức tự khẳng định cá tính độc đáo của mình. Chứng tỏ ông là người có một lòng yêu quê hương đất nước tha thiết, một cuộc đời lao động nghệ thuật khổ hạnh, một trí thức tâm huyết với nghề. Người đọc yêu hơn, trân trọng hơn phẩm chất, cốt cách của con người đáng quý này.

3.3.Kết bài: 0.25

– Kết luận về nội dung, nghệ thuật vẻ đẹp hình tượng con sông Đà;

– Nêu cảm nghĩ về vẻ đẹp thiên nhiên và đóng góp của nhà văn cách mạng Nguyễn Tuân

  1. Sáng tạo

Có cách diễn đạt sáng tạo, thể hiện suy nghĩ sâu sắc, mới mẻ về vấn đề nghị luận.

  1. Chính tả, dùng từ, đặt câu

Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu

Bài văn cảm nhận đoạn: Còn xa lắm mới đến cái thác dưới… có giỏi thì tiến gần vào

Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc

Khi lòng ta đã hóa những con Tàu

Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên

Tây Bắc đã được xem như một mảnh đất hứa cho văn chương nghệ thuật, bởi vùng núi ấy không chỉ để lại nhiều ân tình mà còn khiến cho các nhà văn, nhà thơ có được những nguồn cảm hứng bất tận. Nếu như Nguyễn Huy Tưởng đã có cho mình cuốn tiểu thuyết “Bốn năm sau”, Tô Hoài ghi dấu ấn với VCAP, Nguyễn Khải viết nên “Mùa lạc” thì Nguyễn Tuân lại thăng hoa trên mảnh đất này với tập “Tùy bút Sông Đà” mà linh hồn là bài kí “Người lái đò Sông Đà”. Thưởng thức bài kí, người đọc không khỏi ấn tượng với vẻ đẹp hung bạo của dòng sông, trong đó, đoạn trích miêu tả những con thác cuồng nộ và trận địa đá đã góp phần in đậm bản ngã của Nguyễn Tuân vào sóng nước Đà giang.

“Nếu Xuân Diệu xem tình yêu là tôn giáo thì Nguyễn Tuân xem cái đẹp như là tôn giáo của mình” (Gs Trần Đình Sử) Thật vậy, Nguyễn Tuân là một người nghệ sĩ tài hoa, suốt đời đi tìm cái đẹp. Ông sáng tác nhiều thể loại, song thành công nhất vẫn là thể tùy bút. “Người lái đò sông đà” trích trong tập tùy bút “Sông Đà”, xuất bản năm 1960, là kết quả của chuyến đi thực tế đến miền Tây Bắc năm 1958 của Nguyễn Tuân, ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên và con người nơi đây.

“Nếu Xuân Diệu xem tình yêu là tôn giáo thì Nguyễn Tuân xem cái đẹp như là tôn giáo của mình” (Gs Trần Đình Sử) Thật vậy, Nguyễn Tuân là một người nghệ sĩ tài hoa, suốt đời đi tìm cái đẹp. Ông sáng tác nhiều thể loại, song thành công nhất vẫn là thể tùy bút. “Người lái đò sông đà” trích trong tập tùy bút “Sông Đà”, xuất bản năm 1960, là kết quả của chuyến đi thực tế đến miền Tây Bắc năm 1958 của Nguyễn Tuân, ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên và con người nơi đây.

Nhà văn Thạch Lam từng nói: “Công việc của nhà văn là phát hiện ra cái đẹp ở chỗ không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật để cho người đọc một bài học trông nhìn và thưởng thức”. Sông Đà đẹp, “độc bắc lưu” đã lọt vào cảm giác nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Đến với dòng sông đặc biệt này, NT đã không quản ngại công phu để quan sát kĩ càng, ghi lại sự hung bạo, dữ dằn cũng như vẻ đẹp trữ tình thơ mộng của dòng sông trên nhiều vẻ. Tuy nhiên, nhà văn không làm công việc của một nhà địa lí, địa chất học mà đã biến con sông của miền TB thành một hình tượng sống động, một đối tượng thẩm mĩ hoàn chỉnh. Không phải ngẫu nhiên NT viết hoa hai chữ SĐ trái với quy tắc thông thường. Ông không nói SĐ khơi nguồn mà nói “khai sinh”, không nói chảy vào lãnh hổ mà nói “xin nhập quốc tịch”, không nói SĐ trải rộng ra lưu vực mà dùng cách diễn đạt “trưởng thành mãi lên”.. Đằng sau cách viêt ấy là cả một tấm lòng yêu mến, tự hào về con sông đất Việt. Nghệ thuật nhân hóa khiến SĐ hiện lên không còn là một dòng chảy vô tri mà như một con người có lai lịch, có tên gọi, có cá tính, tâm trạng.. SĐ đã trở thành một hình tượng chính của thiên tùy bút với hai nét tính cách: Hùng vĩ và thơ mộng.

Đoạn văn nằm ở nửa đầu phần trích trong sách giáo khoa, miêu tả sự hiểm trở, hung bạo của thác đá và những trùng vi thạch trận trên sông Đà. Sau khi đã cho thấy nét đẹp hung bạo của SĐ ở “cảnh đá bờ sông dựng vách thành”, “những quãng mặt ghềnh HL” “những hút nước”, Nguyễn Tuân lại tiếp tục dẫn người đọc đến cảnh tượng hùng vĩ nhất cho nét đẹp ấy, đó là thác đá và thạch trận trên SĐ.

“Đường lên Mường Lễ bao xa

Trăm bảy mươi thác trăm ba mươi ghềnh”

Dường như trong tiềm thức của nhiều người VN, SĐ là một dòng sông gập ghềnh, dữ dội, âm ba tiếng sóng thác. Thật vậy, chính thác đá đã trở thành một yếu tố quan trọng làm nên vẻ đẹp hùng vĩ cho sông Đà và được nhà văn Nguyễn Tuân thể hiện thật đặc sắc. Trước hết, đó là âm thanh cuồng nộ, hoang dã của nước thác: “Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại réo to mãi lên”. Dường như khoảng cách giữa tác giả và con thác ngày càng gần. Khi đó, âm thanh càng trở nên khủng khiếp, trở nên kinh động cả một vùng hoang sơ: “Réo gần mãi”, “réo to mãi lên”. Có thể thấy, nhà văn Nguyễn Tuân đã cảm nhận bằng thính giác để bắt trọn âm thanh và đưa vào trong trang văn của mình những nét khắc họa vô cùng sống động.

Sự hình dung về âm thanh nước thác ngày càng cụ thể, chi tiết hơn” “Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo”. Đến đây, ta cứ ngỡ Nguyễn Tuân đang phô bày ra trước mắt người đọc một bữa tiệc ngôn từ với hàng loạt từ ngữ chỉ cảm xúc, thái độ, tâm trạng của con người. Dường như bao nhiêu âm thanh là bấy nhiêu đòn tâm lý mà con thủy quái sông Đà tung ra khiến ông đò nao núng. Cái hay ở đây là ông đã dùng ngôn ngữ của âm nhạc để tấu lên một bản giao hưởng man dại mà phấn khích của thiên nhiên, dùng từ ngữ gợi tả âm thanh theo những cung bậc tăng dần cả về sắc thái cảm xúc, cả về âm lượng để thấy trong đó có nhiều giọng điệu, trạng thái, nhiều cung bậc cảm xúc như con người mà cung bậc nào cũng nỉ non, cũng ai oán, cũng khiêu thích và cũng đầy hận thù. Âm điệu đa thanh ấy thể hiện một điều gì bí ẩn, bí hiểm của kẻ thù còn giấu mặt. Lắng nghe được âm thanh thác nước như thế phải là người nghệ sĩ am hiểu về âm nhạc và có trí tưởng tượng phong phú.

Nhưng có lẽ câu văn giàu hình ảnh và tập trung bút lực bậc nhất về thanh âm nước thác nằm ở đây: “Thế rồi nó rống lên như tiếng một đàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng.” Quả là một nét miêu tả thần tình, Nguyễn Tuân đã viết nên một câu văn dài đầy ắp những hình ảnh dữ dội gợi cho người đọc cảm giác như bị hụt hơi, dồn đuổi lấn lướt của rừng lửa đang bao vây đàn trâu mộng. Bút pháp tạo hình tạo âm của NT đã phô diễn toàn bộ sức mạnh hoang dại, bản năng của SĐ. Đó là sự cộng hưởng của hai thứ âm thanh: Tiếng gầm thét của ngàn con trâu mộng trong tình thế cuồng loạn, hung dữ đang dùng hết sức lực để tìm sự sống, để thoát thân kết hợp với nhiều âm thanh của rừng lửa cùng gầm thét, rừng lửa của rừng vầu, rừng tre, nứa nổ lửa dữ dội.

Cái hay nằm ở chỗ, người đọc có thể thấy sức liên tưởng của nhà văn vô cùng độc đáo, ta vẫn thường lấy âm thanh thác nước để so sánh với những âm thanh khác. Ở đây, nhà văn đã thể hiện tài hoa của mình khi dùng những yếu tố thường tách biệt với nhau, đối lập nhau để miêu tả cho nhau. Đó là, ông đã lấy núi rừng để tả sông, lấy lửa dể tả nước. Những yếu tố tương khắc mà giờ lại tương sinh khiến cho hình ảnh so sánh càng trở nên độc đáo, sức mạnh hủy diệt của con SĐ càng trở nên đáng sợ, mà nói như nhà giáo Đỗ Kim Hồi, rằng “Nguyễn Tuân đã chơi ngông lắm trong nghệ thuật”, và cái ngông ấy lại giúp chúng ta có được cái nhìn đầy lí thú về “sự tương giao sức mạnh giữa các lực lượng tự nhiên”. Cách miêu tả ấy khiến âm thanh của thác đá không chỉ được cảm nhận bằng thính giác, không chỉ được hình dung qua trí tưởng tượng mà còn được gợi tả qua những ấn tượng đặc biệt sống độngcủa thị giác, xúc giác khiến con SĐ hiện ra như một loài thủy quái khổng lồ hỗn loạn, ầm ào, dữ dội tới mức khủng khiếp, đem lại cho người đọc cảm giác lạ lùng, kinh hoàng về sư hung bạo của con sông.

[​IMG]

Câu văn “tới cái thác rồi!” ngắn gọn giống như một tiếng reo ngỡ ngàng, thích thú khi cái thác hiện ra. Đây cũng là lúc, nhà văn tạm bỏ lại sau lưng cảnh thác gầm bạo liệt để vẽ ra trước mắt người đọc một cảnh tượng mới: “Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá” Cách nói phóng đại, khoa trương, mang đến cảm giác choáng ngợp về đá. Đá ở đây lớp lớp, miên man, trùng điệp, lại ẩn hiện trong bọt sóng và chiếm lĩnh suốt chiều dài dòng sông. Tính từ “trắng xóa” còn được lặp lại hai lần trong đoạn văn, gây ấn tượng về sóng, về gió, về bọt nước trào sôi mãnh liệt, gợi tả làn nước như mờ đi trên mặt sóng, trên một diện rộng mênh mông, trên mặt của sông.

Đá sông Đà trên trang văn Nguyễn Tuân hoàn toàn không phải sự vật vô tri: “Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền” Từ “ngàn năm” kết hợp thuật ngữ “mai phục” gợi cảm nhận như có tầng tầng lớp lớp đá đang ẩn mình dưới lòng sông sâu lúc nào cũng rình rập, tấn công thuyền. Rõ ràng SĐ không chỉ dậy sóng, đầy gió trên mặt nước mà SĐ vẫn muôn đời bí ẩn và hiểm ác trong lòng sông sâu. Có những tảng đá gồ ghề, tác giả cảm thấy nó nhăn nhúm, nó méo mó, nó ngỗ ngược, có những hòn đá bệ vệ, oai phong lẫm liệt, có những hòn hất ngược lên như đang hất hàm thách thức đối với người lái đò, có những hòn đá xanh chảy từ trên xuôi xuống giống như là thằng đá tứ tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng. Mỗi hòn một diện mạo, hòn nào trông cũng ngỗ ngược, dữ tợn, mang dáng dấp của một tên côn đồ hung hãn, một lũ du côn của thiên nhiên hoang dại, như kẻ trịch thượng và ngổ ngáo. Bằng nghệ thuật nhân hóa, chúng ta nhận ra từng sắc diện người trong những hình thù của đá khiến cho chúng trở nên sống động, rõ nét, lạ lùng. Chúng như một bầy thủy quái vừa hung hăng, bạo ngược, vừa nham hiểm, xảo quyệt. Sẵn sàng ăn tươi nuốt sống mọi con thuyền. NT đã tận dụng hết sức mạnh điêu khắc của ngôn từ mà truyền sự sống cho từ thớ đá trên SĐ.

“SĐ đã giao việc cho mỗi hòn.” Cả một tập hợp đá là một chuỗi những nguy hiểm, rình rập người lái đò. Nó “bày thạch trận trên sông” với ba lớp trùng vi kiên cố, “chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền”. Mỗi trùng vi được thần sông, thần dá thiết kế theo một sơ đồ riêng đầy cửa tử với những boong-ke chìm, pháo đài nổi và luôn có ba lớp án ngữ: Có hàng tiền vệ, có tuyến giữa, tuyến sau và mỗi tuyến lại có một nhiệm vụ khác nhau, cùng phối hợp với nhau trong việc tấn công đối phương. Hàng tiền vệ có nhiệm vụ canh cửa và dẫn dụ đối tượng vào sâu bên trong đến khi con thuyền của đối phương lọt vào sâu bên trong thì tuyến 2 phải đánh khuýp quật vu hồi. Nếu con thuyền du kích ấy vẫn lọt lưới khỏi tuyến 2 thì nhiệm vụ của tuyến ba phải đánh tan con thuyền và tiêu diệt tất cả thuyền trưởng, thủy thủ dưới chân thác. Có thể thấy, dưới ngòi bút NT, những hòn đá ấy trở thành những binh sĩ được huấn luyện tinh nhuệ, lại thêm chiến thuật bài bản, sẵn sàng tấn công mọi thuyền bè qua đó.

Nguyễn Tuân đã đem kiến thức quân sự và võ thuật, thể thao để xây dựng hình ảnh những tượng đá, quân đá ở SĐ. Đá phối hợp với thác dàn bày thạch trận không chỉ hung dữ mà còn xảo quyệt, nhan hiểm – một trận chiến “thiên la địa võng” giống như “bát trận đồ” của khổng minh theo binh pháp Tôn Ngô mà NT soạn lại. Tất nhiên, trận đồ của Nguyễn Tuân không có Long xà trận nhưng có thạch trận đủ cửa tử, cửa sinh, không đủ bát trận nhưng cũng có trận nước, trận sau, trận trên, trận dưới, nhiều lớp, nhiều tuyến có tiên phong, có dự bị.. Cả một tập hợp đá là một chuỗi những nguy hiểm rình rập người lái đò. Tưởng tượng ông lái đò một mình lẻ loi trên con thuyền xuôi ngược nếu không có được sức mạnh của chiến binh Héc-quyn thì ắt phải giống như chiến thần Triệu Vân đơn độc mà oai phong phá vòng vây kẻ thù, chỉ khác mặt trận của ông là muôn trùng sóng nước.

NT đã dùng hết bút lực của mình để quyết một phen thi tài với tạo hóa, gieo ấn tượng với người đọc. Nhà văn dùng những câu văn góc cạnh, giàu chất tạo hình, tạo nhạc, ngôn từ biến hóa phong phú, những câu văn nổi hình, nổi sắc, trúc trắc, gập ghềnh, mà nói như nhà thơ Phạm Tiến Duật là những câu văn “dài khúc khuỷu, tỉa tót mà vẫn mạch lạc”, những động từ, tính từ phép liên tưởng, ẩn dụ, so sánh độc đáo để chạy đua với sóng, với thác, với đá sông Đà. Nhà văn cũng vận dụng hiểu biết của nhiều ngành khác nhau như địa lí, lịch sử, hội họa, văn chương và những tri thức về tự nhiên để khắc họa vẻ đẹp của SĐ. Dưới ngòi bút của người nghệ sĩ ngôn từ, sự hùng vĩ của Đà giang đã hiện ra ở nhiều dáng vẻ khác nhau khiến người đọc rùng mình, sởn gáy như đứng trước cảnh thực. Tất cả đều toát lên sức mạnh kì bí của một đối tượng ẩn chứa nội lực phi thường. Nó thực sự trở thành thử thách lớn đối với con người, nó chính là những thử thách của thiên nhiên mà con người cần khám phá, chế ngự, chinh phục. Con sông độc lạ ấy thật thích hợp với ngòi bút độc lạ của NT. Khi miêu tả con sông hung bạo, đặc biệt là cảnh thác đá, NT không giấu được niềm ngưỡng mộ, say mê, phấn khích đối với những hình ảnh, âm thanh, những hoạt động của dòng sông. Đúng là NT đã in bản ngã của mình trên sóng nước Đà giang.

Huy-gô đã từng nói: “Bình thường là cái chết của nghệ thuật”. Có lẽ đó là điều mà Nguyễn Tuân sợ nhất. Con người ấy luôn muốn đề cao bản ngã của mình, “không để mình giống ai và cũng không ai bắt chước được mình” (Phan Cự Đệ). Với tùy bút NLĐSĐ và việc xây dựng thành công hình tượng sông đà, đặc biệt là đoạn văn con sông Đà hùng vĩ nơi thượng nguồn, NT vượt qua được quy luật nghiệt ngã của sự sáng tạo nghệ thuật, vượt lên trên cái bình thường để cho nhân vật SĐ mãi mãi bất tử trong lòng người yêu văn. Và sóng nước Đà giang sẽ còn tô điểm cho vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên đất nước:

Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu

Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát

Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác

Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi

Từ khóa tìm Còn Xa Lắm Mới Đến Cái Thác Dưới…Tiến Gần Vào

còn xa lắm mới đến cái thác dưới
cảm nhận đoạn: còn xa lắm mới đến cái thác dưới có giỏi thì tiến gần vào
còn xa lắm mới đến cái thác dưới…tiến gần vào
cảm nhận đoạn trích còn xa lắm mới đến cái thác dưới
phân tích còn xa lắm mới đến cái thác dưới
phân tích đoạn còn xa lắm mới đến cái thác dưới
phân tích đoạn trích còn xa lắm mới đến cái thác dưới
dàn ý còn xa lắm mới đến cái thác dưới có giỏi thì tiến gần vào
phân tích còn xa lắm mới đến cái thác dưới có giỏi thì tiến gần vào
cảm nhận đoạn văn còn xa lắm mới đến cái thác dưới
cảm nhận còn xa lắm mới đến cái thác dưới
còn xa lắm mới đến cái thác dưới những đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại réo to mãi lên
dàn ý còn xa lắm mới đến cái thác dưới
cảm nhận đoạn còn xa lắm mới đến cái thác dưới có giỏi thì tiến gần vào
phân tích người lái đò sông đà còn xa lắm
còn xa lắm
còn xa lắm mới đến cái thác dưới cháy bùng bùng
phân tích đoạn văn còn xa lắm mới đến
còn xa lắm mới đến cái thác

Scores: 4.2 (165 votes)

100 lần tự tìm hiểu cũng không bằng 1 lần được tư vấn