Động vật ruột khoang là một nhóm động vật không xương sống, thuộc lớp Chân bụng (Mollusca), được phân bố rộng rãi trên toàn thế giới từ các môi trường nước ngọt đến các vùng biển sâu. Trong nhóm này, có rất nhiều loài vật có hình dáng và kích thước khác nhau, từ những con nhỏ nhắn đến những con khổng lồ, có vỏ hoặc không có vỏ. Đặc trưng của động vật ruột khoang là chúng có một bộ phận ruột mềm nằm ở bên trong cơ thể, được bảo vệ bởi một lớp dày màu trắng gọi là vỏ. Đây là một nhóm động vật có giá trị kinh tế cao, được sử dụng nhiều trong chế biến thực phẩm và là nguồn thu nhập quan trọng đối với một số nơi. Tuy nhiên, nhiều loài động vật ruột khoang cũng đang đối mặt với nguy cơ bị đe dọa hoặc tuyệt chủng do sự suy thoái của các môi trường sống.
Những Đại Diện Nào Sau Đây Thuộc Ngành Ruột Khoang
1. Thận
2. Gan
3. Từng bên của lồng ngực
4. Từng bên của hình cầu não
5. Bàng quang
6. Tử cung
7. Dạ dày
8. Ruột non
9. Tuyến giáp
10. Tuyến nội tiết thận.
[TSBVN] Giới thiệu về ngành Ruột khoang
Động vật ruột khoang
Động vật ruột khoang | |
---|---|
![]() Một loài sứa lược (Beroe spp.)
|
|
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Animalia |
Phân giới (subregnum) | Eumetazoa |
(không phân hạng) | Coelenterata |
Các ngành | |
Ctenophora Cnidaria |
Động vật ruột khoang hay động vật xoang tràng hoặc ngành Ruột khoang (Coelenterata) là một thuật ngữ đã lỗi thời nhưng vẫn rất phổ biến để chỉ một nhóm cận ngành, bao gồm hai ngành động vật theo quan điểm của phát sinh loài, là Ctenophora (sứa lược) và Cnidaria (san hô, sứa thật sự, hải quỳ, san hô lông chim, và các loài có họ hàng gần khác). Tên gọi của đơn vị phân loại này có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp “koilos” (“rỗng”), để chỉ đặc trưng khoang cơ thể rỗng (chưa phân hóa) phổ biến ở hai ngành này. Chúng có các cơ quan, tổ chức mô rất đơn giản, chỉ với hai lớp tế bào, bên ngoài và bên trong, giữa 2 lớp là tầng keo. Động vật ruột khoang thường sống ở biển, số lượng loài của ngành ruột khoang là khoảng 10 nghìn loài.
Một số đại diện của ngành ruột khoang như: thủy tức, san hô, hải quỳ…Trong đó, số lượng cá thể và số lượng loài của san hô lớn hơn cả (khoảng 6 nghìn loài).
Lịch sử phân loại
Thuật ngữ coelenterata không còn được công nhận là hợp lệ về mặt khoa học, do Cnidaria và Ctenophora đã được đặt ở cấp tương đương ngay dưới giới Metazoa với các ngành động vật khác. Một thuật ngữ duy nhất bao gồm cả hai ngành này nhưng bỏ ra ngoài toàn bộ các đơn vị phân loại cùng cấp khác có thể coi là cận ngành. Tuy nhiên, thuật ngữ coelenterata vẫn còn được sử dụng một cách không chính thức để chỉ cả hai nhóm Cnidaria và Ctenophora.
Phức tạp hóa vấn đề là công trình năm 1997 của Lynn Margulis (sửa đổi lại mô hình trước đó của Giáo sư Sinh học Tiến hóa Thomas Cavalier-Smith) đã đặt hai nhóm Cnidaria và Ctenophora dưới nhánh động vật đối xứng tỏa tròn (Radiata) của phân giới động vật đa bào thật sự (Eumetazoa). (Thuật ngữ sau chỉ tới tất cả các nhóm động vật, ngoại trừ hải miên (Porifera), Trichoplax, và Mesozoa vẫn còn chưa được hiểu rõ.) Tuy chẳng có kiểu gộp nhóm nào được công nhận một cách rộng rãi;, nhưng cả hai nói chung đều được ghi nhận trong các tài liệu về phân loại động vật.
Tham khảo
Liên kết ngoài
100 lần tự tìm hiểu cũng không bằng 1 lần được tư vấn