Giải Thích Biện Pháp Gây Vô Sinh Vật Gây Hại (update 2023)

Đấu tranh sinh học là một lĩnh vực nghiên cứu trong khoa học và y học, tập trung vào việc tìm hiểu và chữa trị các bệnh tật bằng cách sử dụng các công nghệ sinh học hiện đại. Đây là một lĩnh vực đầy triển vọng, được xem là giải pháp cho nhiều bệnh tật hiện nay mà trước đây bị coi là không thể chữa trị. Đấu tranh sinh học cũng bao gồm các nghiên cứu về gen, vi sinh vật, protein và các phản ứng sinh hoá trong cơ thể con người. Nhờ sự phát triển của các công nghệ tiên tiến, Đấu tranh sinh học có thể giúp người ta tìm ra những giải pháp chữa trị hiệu quả và an toàn cho các bệnh như ung thư, tiểu đường, bệnh tim mạch, bệnh trầm cảm và rối loạn lo âu.

Giải Thích Biện Pháp Gây Vô Sinh Vật Gây Hại

Biện pháp gây vô sinh là một phương pháp được sử dụng để kiểm soát số lượng và sự phát triển của các loài vật gây hại, đặc biệt là trong nông nghiệp. Phương pháp này thường được sử dụng kết hợp với các biện pháp khác như sử dụng thuốc trừ sâu và quản lý môi trường để giảm thiểu sự phát triển của sự cạnh tranh và tạn dụng tối đa tác động đến môi trường và sức khỏe con người.

Các biện pháp gây vô sinh bao gồm sử dụng các kỹ thuật điều trị hạch cấu trúc tế bào, sử dụng một loài vật gây hại để tiêu diệt các loài khác, sử dụng nhiệt độ, ánh sáng hoặc xạ trị để tàn sát sinh sản các loài vật gây hại, sử dụng các chất hóa học chặn đường truyền hóa sinh sản, và sử dụng thuốc trừ côn trùng để tiêu diệt các con cái của loài vật gây hại. Các biện pháp này có thể được sử dụng độc lập hoặc kết hợp với nhau để tạo ra một chiến lược kiểm soát toàn diện cho các loài vật gây hại. Tuy nhiên, việc sử dụng các biện pháp này cần phải được thực hiện cẩn thận để tránh ảnh hưởng đến các loài vật khác và môi trường tự nhiên.

Trả lời câu hỏi thảo luận số 2 trang 193 SGK Sinh học 7

Đấu tranh sinh học

Đấu tranh sinh học là việc sử dụng các thiên địch (sinh vật tiêu diệt sinh vật có hại), gây bệnh truyền nhiễm và gây vô sinh ở động vật gây hại nhằm hạn chế tác động gây hại của sinh vật gây hại.

Các biện pháp đấu tranh sinh học

Sử dụng thiên địch tiêu diệt sinh vật gây hại

Ở từng địa phương đều có những thiên địch gần gũi với con người như: mèo diệt chuột, gia cầm (gà, vịt, ngan, ngỗng) để tiêu diệt các loài sâu bọ, cua, ốc mang vật chủ trung gian. Chẳng hạn như: cá đuôi cờ, thằn lằn, cóc, sáo, cú ăn bọ gậy và ăn ấu trùng sâu bọ hoặc rắn sọc dưa, cắt, mèo rừng ăn chuột gây hại cho lúa. Ngoài ra, còn có các thiên địch đẻ trứng ký sinh vào sinh vật gây hại hay trứng của sâu hại, sử dụng vi khuẩn gây bệnh truyền nhiễm và gây vô sinh động vật gây hại.

Sử dụng thiên địch đẻ trứng ký sinh vào sinh vật gây hại hoặc trứng của sâu hại

Cây xương rồng được nhập vào nhiều nước để làm bờ rào và thuốc nhuộm. Khi cây xương rồng phát triển quá mạnh, người ta đã sử dụng một loài bướm đêm từ Argentina. Bướm đêm đẻ trứng lên cây xương rồng, ấu trùng nở ra, ăn cây xương rồng.

Mặt khác, ong mắt đỏ đẻ trứng lên trứng sâu xám (trứng sâu hại ngô). Ấu trùng nở ra, đục và ăn trứng sâu xám.

Sử dụng vi khuẩn gây hại truyền cho sinh vật gây hại

Vào 1859, người ta nhập 12 đôi thỏ vào Úc. Đến 1900, số thỏ này lên đến vài trăm triệu con và trở thành động vật có hại. Người ta đã dùng vi khuẩn Myoma gây bệnh cho thỏ. Sau 10 năm chỉ với 1% số thỏ sống sót được miễn dịch, đã phát triển mạnh. Khi đó người ta đã phải dùng vi khuẩn Calixi thì thảm họa về thỏ mới cơ bản được giải quyết.

Gây vô sinh diệt động vật gây hại

Ở miền Nam nước Mỹ, để diệt loài ruồi gây viêm loét ở da ở bò, người ta đã làm tuyệt sản ruồi đực. Ruồi cái không sinh đẻ được.

Ưu điểm và hạn chế.

Ưu điểm

Sử dụng đấu tranh sinh học đã mang lại những hiệu quả cao, tiêu diệt những loài sinh vật có hại, thể hiện nhiều ưu điểm so với thuốc trừ sâu, diệt chuột. Những loại thuốc này gây ô nhiễm môi trường, ô nhiễm rau, quả, ảnh hưởng xấu tới sinh vật có ích và sức khỏe con người, gây hiện tượng quen thuốc, giá thành còn cao.

Hạn chế

Nhiều loài thiên địch được di nhập, vì không quen với khí hậu địa phương nên phát triển kém.

Ví dụ: kiến vống được sử dụng để diệt sâu hại lá cam, sẽ không sống được ở những địa phương có mùa đông quá lạnh. Thiên địch không diệt hết được sinh vật gây hại mà chỉ kìm hãm sự phát triển của chúng. Vì thiên địch thường có số lượng ít và sức sinh sản thấp, chỉ bắt được những con mồi yếu hoặc bị bệnh. Khi thiên địch kém phát triển hoặc bị tiêu diệt, sinh vật gây hại được miễn dịch, thì sinh vật gây hại lại tiếp tục phát triển.

Sự tiêu diệt loài sinh vật có hại này lại tạo điều kiện cho loài sinh vật khác phát triển.

Ví dụ: Để diệt loài cây cảnh Lantana có hại ở quần đảo Hawaii, người ta đã nhập 8 loài sâu bọ là thiên địch của loài cây cảnh này. Khi cây cảnh bị tiêu diệt, đã làm giảm số lượng chim sáo chuyên ăn cây cảnh, nên làm tăng số lượng sâu hại ruộng mía vốn là mồi của chim sáo. Kết quả là diệt được một loài cây cảnh có hại song sản lượng mía đã bị giảm sút nghiêm trọng.

Đối với nông nghiệp, chim sẻ vào đầu xuân, thu và đông, ăn lúa, thậm chí ở nhiều vùng còn ăn cả mạ mới gieo. Vậy chim sẻ là chim có hại. Về mùa sinh sản, cuối xuân đầu hè, chim sẻ ăn nhiều sâu bọ có hại cho nông nghiêp. Vậy là chim sẻ có ích..

Qua thực tế, có một giai đoạn Trung Quốc tiêu diệt chim sẻ (vì cho rằng chim sẻ có hại), nên đã bị mất mùa liên tiếp trong một số năm. Thực tế đó đã chứng minh chim sẻ là chim có ích cho nông nghiệp.

  • Kiến thức cần nhớ: Biện pháp đấu tranh sinh học bao gồm cách sử dụng những thiên địch, gây bệnh truyền nhiễm và gây vô sinh cho động vật gây hại, nhằm hạn chế tác động của sinh vật gây hại, sử dụng đấu tranh sinh học có nhiều ưu điểm hơn so với thuốc trừ sâu.Tuy nhiên đấu tranh sinh học cũng có những hạn chế cần khắc phục.

Tham khảo

Bài viết này vẫn còn sơ khai. Bạn có thể giúp Wikipedia mở rộng nội dung để bài được hoàn chỉnh hơn.
  • x
  • t
  • s


Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Đấu_tranh_sinh_học&oldid=68572534”

Scores: 4.6 (146 votes)

100 lần tự tìm hiểu cũng không bằng 1 lần được tư vấn