Lời nói dối tháng Tư là gì? Chi tiết về Lời nói dối tháng Tư mới nhất 2023

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
(đổi hướng từ Shigatsu wa Kimi no Uso)

Bước tới điều hướng
Bước tới tìm kiếm

Lời nói dối tháng Tư
Bìa truyện tiếng Việt
Bìa truyện tiếng Việt (tập 1) bao gồm Arima Kōsei và Miyazono Kaori
四月は君の嘘
(Shigatsu wa Kimi no Uso)
Thể loại Chính kịch, Lãng mạn, Âm nhạc
Manga
Tác giả Arakawa Naoshi
Nhà xuất bản Kodansha
Nhà xuất bản tiếng Việt Nhà xuất bản Trẻ
Nhà xuất bản khác
NA
Kodansha Comics USA[1]
Đối tượng Shōnen
Tạp chí Monthly Shōnen Magazine
Đăng tải 6 tháng 4 năm 20116 tháng 2 năm 2015
Số tập 11 (danh sách tập)
Anime
Shigatsu wa Kimi no Uso Anime cover.jpg
Đoạn giới thiệu tên phim bằng tiếng Nhật, có sự xuất hiện của một trong bốn nhân vật chính, Miyazono Kaori
Đạo diễn Ishiguro Kyōhei
Kịch bản Yoshioka Takao
Âm nhạc Yokoyama Masaru
Hãng phim A-1 Pictures
Cấp phép
AUS
Madman Entertainment
NA
Aniplex of America
UK
Anime Limited
Phát sóng 9 tháng 10 năm 2014 19 tháng 3 năm 2015
Số tập 22 (danh sách tập)
OVA
Moments
Đạo diễn Ishiguro Kyōhei
Hãng phim A-1 Pictures
Phát hành 15 tháng 5 năm 2015
Thời lượng / tập 23 phút
Phim người đóng
  • Lời nói dối tháng Tư (phim)
Wikipe-tan face.svg Chủ đề Anime và manga

Lời nói dối tháng Tư (四月は君の嘘 Shigatsu wa Kimi no Uso?, Tháng Tư là lời nói dối của em) là một manga dài tập được viết và minh hoạ bởi Arakawa Naoshi. Bộ manga được Kodansha xuất bản trong nguyệt san Shōnen từ tháng 4 năm 2011 tới tháng 5 năm 2015.

Năm 2016, manga được cấp phép bản quyền tại Việt Nam bởi nhà xuất bản Trẻ dưới tựa đề “Lời nói dối tháng Tư”.[2] Một phiên bản anime dài tập đã được A-1 Pictures chuyển thể và phát sóng từ tháng 10 năm 2014 tới tháng 5 năm 2015 trên một kênh của hệ thống Fuji TV là noitamina.[3] Một phiên bản phim live-action ra rạp vào tháng 9 năm 2016.[4]

Cốt truyện[sửa | sửa mã nguồn]

Thần đồng piano Arima Kōsei thống trị các giải và trở nên nổi tiếng trong giới âm nhạc. Sau cái chết của mẹ, đồng thời là người dạy piano cho cậu, cậu bị suy nhược tinh thần trong một cuộc thi khi mới 11 tuổi. Sau đó, cậu không thể nghe tiếng đàn do chính mình đánh dù cậu không có vấn đề khác về thính giác. Hai năm trôi qua, Kōsei không hề chạm vào cây đàn và nhìn thế giới qua cái nhìn đơn sắc. Cậu tự giải nghệ và bước tiếp cùng với những người bạn tốt, Tsubaki và Watari, cho tới một ngày, một cô gái đã thay đổi tất cả. Miyazono Kaori, một nữ sinh cùng lớp với Tsubaki, 14 tuổi, một nhạc công violin với thiên hướng tự do để những nốt nhạc phản ảnh bản thân, giúp Kōsei trở lại với thế giới âm nhạc và cho cậu thấy nó là cả thế giới tự do mà không gò bó như cách cậu từng chơi. Kết cục tuy buồn, nhưng những mảnh vỡ phần ngoại truyện cũng kéo lại được một vài tháng ngày hạnh phúc.

Nhân vật[sửa | sửa mã nguồn]

Arima Kōsei (

有馬 (ありま) 公生 (こうせい)?)

Lồng tiếng bởi: Hanae Natsuki & Piano bởi: Sakata Tomoki, Diễn viên: Yamazaki Kento
Kōsei là thần đồng piano, được đặt cho biệt danh “Máy đo nhịp hình nhân” vì sự chính xác gần như tuyệt đối khi biểu diễn, là kết quả của phương pháp dạy dỗ nghiêm khắc của mẹ cậu. Khả năng chơi đàn của cậu giúp cậu tham gia vào nhiều cuộc thi trên khắp Nhật Bản. Cái chết của mẹ để lại di chấn tâm tâm lý nặng nề đối với cậu khiến cho cậu không thể nghe được tiếng đàn do chính mình tạo ra. Giờ đây, hai năm sau, cậu bắt đầu tập đàn trở lại sau khi bị thuyết phục bởi Miyazono Kaori, và bị ảnh hưởng bởi phong cách chơi nhạc tự do và phóng túng của cô. Kōsei cuối cùng thích Kaori nhưng không dám thổ lộ vì cô tuyên bố rằng cô thích Watari. Sau khi Kaori qua đời, Kōsei đã nhận ra rằng Kaori mang nặng tình cảm với cậu qua bức thư cuối cùng do cô viết ra.
Miyazono Kaori ( 宮園 (みやぞの) かをり?)
Lồng tiếng bởi: Taneda Risa & Violin bởi: Yūna Shinohara, Diễn viên: Hirose Suzu
Kaori là bạn cùng lớp của Tsubaki, và là một nghệ sĩ violin có thiên hướng tự do, người nhận được nhiều lời phê bình từ các hội đồng giám khảo do sự thiếu tôn trọng bản nhạc và cách tính điểm, nhưng lại được nhiều sự ủng hộ từ khán giả. Kaori lần đầu gặp Kōsei khi cô nhờ Tsubaki sắp đặt cuộc hẹn đôi với Watari, và thuyết phục được Kōsei chơi piano trở lại, lần đầu tiên là với tư cách người đệm đàn cho cô ở một cuộc thi. Kaori từ nhỏ đã muốn được chơi dương cầm (piano) nhưng cô đã chuyển sang chơi vĩ cầm (violin) vì cô muốn Kōsei là người đánh đàn cho mình sau khi nghe cậu bé chơi piano trong cuộc thi dương cầm lúc 5 tuổi. Và tình cảm của cô dành cho Kōsei bắt đầu từ đó. Tuy nhiên, khi lần đầu gặp lại Kōsei ở trung học, cô đã nói dối với Kōsei rằng cô thích Watari Ryōta để có thể tiếp xúc nhiều hơn với Kōsei, vì thời gian của cuộc đời cô không còn nhiều nữa.
Sawabe Tsubaki ( 澤部 (さわべ) 椿 (つばき)?)
Lồng tiếng bởi: Sakura Ayane, Diễn viên: Ishii Anna
Bạn thân từ thuở nhỏ của Kōsei và đồng thời là hàng xóm, người coi cậu như đứa em trai bướng bỉnh. Cô là người thích vận động và tham gia đội tuyển bóng chày của trường. Thường nghi ngờ về khả năng vượt qua nỗi đau của Kōsei, cô tìm cách để lôi kéo cậu chơi piano lần nữa. Cô chối rằng mình không có tình cảm hơn cả bạn bè với Kōsei nhưng sau đó thừa nhận.
Watari Ryōta ( (わたり) 亮太 (りょうた)?)
Lồng tiếng bởi: Ōsaka Ryōta, Diễn viên: Nakagawa Taishi
Ryōta là bạn thân của Kōsei và Tsubaki, đồng thời là đội trưởng đội bóng đá của trường. Cậu rất được các bạn gái mến mộ, và cũng thường biểu lộ thái độ ve vãn. Tuy nhiên, cậu cũng thường xuyên đưa ra các lời khuyên có ích. Kaori là người mà cậu thích, và khi ở cạnh nhau, họ cư xử với nhau như tình nhân, điều này làm cho Kōsei ghen tỵ. Kōsei sau đó nói cho Watari biết về tình cảm của mình với Kaori, và Watari chấp nhận điều này đồng thời cho cậu lời khuyên.
Aiza Takeshi ( 相座 (あいざ) 武士 (たけし)?)
Lồng tiếng bởi: Kaji Yūki
Takeshi là nghệ sĩ piano bằng tuổi Kōsei. Mục tiêu của cậu là vượt qua Kōsei trong các cuộc thi piano từ khi thấy Kōsei chơi từ nhỏ. Đối với Takeshi, Kōsei như là một ‘siêu anh hùng’. Cậu rất ngưỡng mộ Kōsei vì khả năng chơi y như nhạc phổ của cậu.
Igawa Emi ( 井川 (いがわ) 絵見 (えみ)?)
Lồng tiếng bởi: Hayami Saori
Emi là một nghệ sĩ piano như Kōsei, cô quyết định chơi piano kể từ khi nghe Kōsei chơi đàn hồi 5 tuổi. Mục tiêu của cô là vượt qua Kōsei bằng phong cách chơi giàu cảm xúc của cô. Có một vài dấu hiệu cho thấy cô có cảm tình với Kōsei, nhưng cô không bao giờ thú nhận.
Aiza Nagi ( 相座 (あいざ) (なぎ)?)
Lồng tiếng bởi: Kayano Ai
Nagi là em gái của Takeshi người giả vờ xin học Hiroko để dò xét về đối thủ của anh trai mình, Kōsei. Nhưng cuối cùng Nagi lại trở thành học trò của Kōsei. Cô thường nói “Sáo rỗng” (陳腐 Chinpu?) với những thứ mà cô nghĩ rằng nó thật sự sáo rỗng. Nagi có cảm tình với Kōsei. Cô được rất nhiều người theo đuổi, nhưng cũng bị nhiều người ganh ghét vì cho rằng cô nổi tiếng nhờ vẻ ngoài xinh xắn của mình.
Arima Saki ( 有馬 (ありま) 早希 (さき)?)
Lồng tiếng bởi: Noto Mamiko
Saki là mẹ cũng như người dạy Kōsei chơi đàn, và thường đánh cậu vì những lỗi nhỏ. Thực ra bà rất yêu con trai, nhưng do không còn nhiều thời gian sống nên bà phải dạy cậu cách đánh chính xác, để khi Saki chết, Kōsei vẫn có thể kiếm sống bằng âm nhạc. Bà luôn lo lắng cho con trai và ước được ở bên con lâu hơn.
Seto Hiroko ( 瀬戸 (せと) 紘子 (ひろこ)?)
Lồng tiếng bởi: Sonozaki Mie
Hiroko là một nghệ sĩ piano nổi tiếng toàn quốc và là bạn thân của Saki. Cô là người phát hiện tài năng của Kōsei và đồng thời trở thành người giám hộ hợp pháp cho cậu sau cái chết của Saki. Khi Kōsei tiếp tục sự nghiệp âm nhạc, cô trở thành cố vấn của cậu. Cô luôn bị ám ảnh bởi hình ảnh cậu bé Kōsei run rẩy trong góc tường, và luôn có mặc cảm rằng mình đã đẩy Kōsei vào đường cùng. Hiroko cho rằng, việc Kōsei không thể nghe tiếng đàn của mình được nữa là món quà Saki cho cậu, vì cậu sẽ không bị ảnh hưởng bởi âm thanh bên ngoài nên có thể đàn lên những cảm xúc trong người mình.

Truyền thông[sửa | sửa mã nguồn]

Manga[sửa | sửa mã nguồn]

Truyện được viết và minh hoạ bởi Naoshi Arakawa, và bắt đầu xuất bản vào 6 tháng 4 năm 2011 trong tạp chí của Kodansham tờ Monthly Shōnen Magazine.[5][6][7] Bộ truyện được đăng ký bản quyền ở khu vực Bắc Mỹ bởi Kodansha Comics USA, và xuất bản lần đầu vào 21 tháng 4 năm 2015.[8] Bộ truyện được nhà xuất bản Trẻ mua bản quyền và phát hành tại Việt Nam từ tháng 12 năm 2016.[9]

# Tiếng Nhật Tiếng Anh
Ngày phát hành ISBN Ngày phát hành ISBN
1 ngày 16 tháng 9 năm 2011 ISBN 978-4-06-371301-5 ngày 21 tháng 4 năm 2015[10] ISBN 978-1-63-236171-4
2 ngày 17 tháng 1 năm 2012[11] ISBN 978-4-06-371317-6 ngày 23 tháng 6 năm 2015[12] ISBN 978-1-63-236172-1
3 ngày 17 tháng 5 năm 2012[13] ISBN 978-4-06-371327-5 ngày 25 tháng 8 năm 2015[14] ISBN 978-1-63-236173-8
4 ngày 14 tháng 9 năm 2012[15] ISBN 978-4-06-371345-9 ngày 27 tháng 10 năm 2015[16] ISBN 978-1-63-236174-5
5 ngày 17 tháng 1 năm 2013[17] ISBN 978-4-06-371359-6 ngày 29 tháng 12 năm 2015[18] ISBN 978-1-63-236175-2
6 ngày 17 tháng 5 năm 2013[19] ISBN 978-4-06-371375-6 ngày 23 tháng 2 năm 2016[20] ISBN 978-1-63-236176-9
7 ngày 17 tháng 9 năm 2013[21] ISBN 978-4-06-371387-9 ngày 26 tháng 4 năm 2016[22] ISBN 978-1-63-236177-6
8 ngày 17 tháng 1 năm 2014[23] ISBN 978-4-06-371405-0
9 ngày 16 tháng 5 năm 2014[24] ISBN 978-4-06-371418-0
10 ngày 17 tháng 10 năm 2014[25] ISBN 978-4-06-371435-7
11 ngày 15 tháng 5 năm 2015 ISBN 978-4-06-371467-8

Anime[sửa | sửa mã nguồn]

A-1 Pictures đã sản xuất và phát sóng anime Lời nói dối tháng Tư. Nó được trình chiếu lần đầu vào ngày 10 tháng 10 năm 2014 tại Nhật Bản và kết thúc vào ngày 20 tháng 3 năm 2015. Bài hát mở đầu đầu tiên là “Hikaru Nara” của Goose house và bài hát chủ đề kết thúc đầu tiên là “Kirameki” (キ ラ メ キ sáng Sparkle) bởi wacci. [32] Bài hát mở đầu thứ hai là “Nanairo Symphony” (Nanairo Shinfoni, “Seven Colored Symphony”) của Coalamode và chủ đề kết thúc thứ hai là “Orange” (オ レ ン ジ Orenji) của 7 !! (Seven Oops). [33] Bản nhạc gốc được sáng tác bởi Yokoyama Masaru.

Tại Bắc Mỹ, Aniplex of America đã cho phép phát hành loạt phim trong khu vực, họ đã cho phát sóng loạt phim trên Crunchyroll, Aniplex Channel, Hulu và Viewster [34] [35] Tại Úc và New Zealand, loạt phim được cấp phép bởi Madman Entertainment, họ đã phát bộ phim trên AnimeLab. [36] Loạt phim này được cấp phép tại Vương quốc Anh và Ireland bởi hãng Anime Limited. [37] Loạt phim này sau đó đã có trên Netflix với dub tiếng Anh, cũng như phụ đề tiếng Anh

Live-action[sửa | sửa mã nguồn]

Vào ngày 24 tháng 8 năm 2015, tên miền ‘kimiuso-movie.jp’ đã được đăng ký bởi Toho, một công ty sản xuất và phân phối phim Nhật Bản, khiến cho người hâm mộ tin rằng một bộ phim chuyển thể đang được sản xuất. [38] Những lời đồn đại đã được xác nhận vào tháng 9 năm 2015 khi mà các diễn viên chính đã được công bố cho phiên bản chuyển thể live-action của bộ phim: Kento Yamazaki trong vai Kōsei Arima, Suzu Hirose trong vai Kaori Miyazono, Anna Ishii của E-girls trong vai Tsubaki Sawabe, và Taishi Nakagawa trong vai Ryōta Watari. Mặc dù câu chuyện ban đầu miêu tả các nhân vật trong năm học cơ sở của họ, nhưng thông báo rằng họ sẽ học năm thứ hai của mình trong bộ phim. Bộ phim chuyển thể, dự kiến sẽ được phát hành tại Nhật Bản vào tháng 9 năm 2016, sẽ do tác giả kịch bản live-action của Strawberry Night, Yukari Tatsui, được chỉ đạo bởi Takehiko Shinjō, đạo diễn live-action của Paradise Kiss.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^

    “Kodansha Comics has licensed Your Lie in April!”. KODANSHA COMICS. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2015.

  2. ^ “Lời nói dối tháng Tư”. Nhà xuất bản Trẻ. ngày 15 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2016.
  3. ^ Shigatsu wa Kimi no Uso Manga Gets Noitamina Anime”. Anime News Network. ngày 21 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2014.
  4. ^ “Live-Action Your Lie in April Film Opens in September”. Anime News Network. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2016.
  5. ^ 四月は君の嘘(1) [Your Lie in April (1)] (bằng tiếng Nhật). Kodansha. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2016. |script-title= không hợp lệ: missing prefix (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  6. ^ 四月は君の嘘(11)<完> [Your Lie in April (11) <Final>] (bằng tiếng Nhật). Kodansha. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2016. |script-title= không hợp lệ: missing prefix (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  7. ^ DVD付き 四月は君の嘘(11)限定版<完> [DVD Bundle Your Lie in April (11) Limited Edition <Final>] (bằng tiếng Nhật). Kodansha. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2016. |script-title= không hợp lệ: missing prefix (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  8. ^ “Your Lie in April 1: A Life in Monotone”. Kodansha Comics USA. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2016.
  9. ^ “LỜI NÓI DỐI THÁNG TƯ 01”. nxbtre.com.vn. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2016.
  10. ^ “Your Lie in April 1”. Penguin Random House. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2016.
  11. ^ 四月は君の嘘(2) [Your Lie in April (2)] (bằng tiếng Nhật). Kodansha. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2016. |script-title= không hợp lệ: missing prefix (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  12. ^ “Your Lie in April 2”. Penguin Random House. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2016.
  13. ^ 四月は君の嘘(3) [Your Lie in April (3)] (bằng tiếng Nhật). Kodansha. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2016. |script-title= không hợp lệ: missing prefix (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  14. ^ “Your Lie in April 3”. Penguin Random House. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2016.
  15. ^ 四月は君の嘘(4) [Your Lie in April (4)] (bằng tiếng Nhật). Kodansha. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2016. |script-title= không hợp lệ: missing prefix (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  16. ^ “Your Lie in April 4”. Penguin Random House. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2016.
  17. ^ 四月は君の嘘(5) [Your Lie in April (5)] (bằng tiếng Nhật). Kodansha. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2016. |script-title= không hợp lệ: missing prefix (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  18. ^ “Your Lie in April 5”. Penguin Random House. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2016.
  19. ^ 四月は君の嘘(6) [Your Lie in April (6)] (bằng tiếng Nhật). Kodansha. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2016. |script-title= không hợp lệ: missing prefix (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  20. ^ “Your Lie in April 6”. Penguin Random House. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2016.
  21. ^ 四月は君の嘘(7) [Your Lie in April (7)] (bằng tiếng Nhật). Kodansha. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2016. |script-title= không hợp lệ: missing prefix (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  22. ^ “Your Lie in April 7”. Penguin Random House. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2016.
  23. ^ 四月は君の嘘(8) [Your Lie in April (8)] (bằng tiếng Nhật). Kodansha. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2016. |script-title= không hợp lệ: missing prefix (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  24. ^ 四月は君の嘘(9) [Your Lie in April (9)] (bằng tiếng Nhật). Kodansha. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2016. |script-title= không hợp lệ: missing prefix (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  25. ^ 四月は君の嘘(10) [Your Lie in April (10)] (bằng tiếng Nhật). Kodansha. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2016. |script-title= không hợp lệ: missing prefix (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

  • Shigatsu wa Kimi no Uso tại Kodansha (tiếng Nhật)
  • website chính thức của phim (tiếng Nhật)
  • Website chính thức của phim (tiếng Anh)
  • Lời nói dối tháng Tư (manga) tại từ điển bách khoa của Anime News Network


Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Lời_nói_dối_tháng_Tư&oldid=64284793”

Từ khóa: Lời nói dối tháng Tư, Lời nói dối tháng Tư, Lời nói dối tháng Tư

LADIGI – Công ty dịch vụ SEO Google giá rẻ, SEO từ khóa, SEO tổng thể cam kết lên Top Google uy tín chuyên nghiệp, an toàn, hiệu quả.

Nguồn: Wikipedia

Scores: 4.8 (189 votes)

100 lần tự tìm hiểu cũng không bằng 1 lần được tư vấn