Nguyễn Thị Bình là gì? Chi tiết về Nguyễn Thị Bình mới nhất 2023

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Bước tới điều hướng
Bước tới tìm kiếm

Nguyễn Thị Bình
Yến Sa
Nguyen Thi Binh and Dinh (crop).jpg
Chức vụ
Phó Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Nhiệm kỳ 23 tháng 9 năm 1992 – 25 tháng 7 năm 2002
&0000000000000009.0000009 năm, &0000000000000305.000000305 ngày
Chủ tịch nước Lê Đức Anh (1992-1997)
Trần Đức Lương (1997-2002)
Tiền nhiệm Nguyễn Thị Định
Kế nhiệm Trương Mỹ Hoa
Vị trí 23px Flag of Vietnam.svg Việt Nam
Logo of Vietnamese Ministry of Education and Training.svg
Bộ trưởng Bộ Giáo dục
Nhiệm kỳ 3 tháng 7 năm 1976 – 16 tháng 2 năm 1987
&0000000000000010.00000010 năm, &0000000000000228.000000228 ngày
Tiền nhiệm Nguyễn Văn Huyên
Kế nhiệm Phạm Minh Hạc
Vị trí 23px Flag of Vietnam.svg Việt Nam
Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam
Nhiệm kỳ 8 tháng 6 năm 1969 – 3 tháng 7 năm 1976
&0000000000000007.0000007 năm, &0000000000000025.00000025 ngày
Tiền nhiệm không có
Kế nhiệm không có
Vị trí FNL Flag.svg Miền Nam Việt Nam
Đại biểu Quốc hội khóa VI, VII, VIII, IX, X
Nhiệm kỳ 25 tháng 4 năm 1976 – 19 tháng 7 năm 2002
&0000000000000026.00000026 năm, &0000000000000085.00000085 ngày
Thông tin chung
Quốc tịch Việt Nam
Sinh 26 tháng 5, 1927 (93 tuổi)
làng Tân Hiệp, quận Châu Thành, tỉnh Sa Đéc, Nam Kỳ, Đông Dương thuộc Pháp
Dân tộc Kinh
Tôn giáo không
Đảng phái Đảng Cộng sản Việt Nam
Chồng Đinh Khang
Gia quyến Phan Châu Trinh (ông ngoại)

Nguyễn Thị Bình (sinh năm 1927), là một nữ chính trị gia người Việt Nam. Bà nổi tiếng trên thế giới khi giữ cương vị Trưởng phái đoàn Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, rồi Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tham gia Hội nghị 4 bên về hòa bình cho Việt Nam tại Paris trong giai đoạn 1968-1973. Bà là một trong những người đại diện các bên ký hiệp định Paris năm 1973 và là người phụ nữ duy nhất đặt bút ký vào Hiệp định. Bà cũng từng giữ chức vụ Phó Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam từ 1992 đến 2002.

Thân thế và bước đầu sự nghiệp chính trị[sửa | sửa mã nguồn]

Bà tên thật là Nguyễn Thị Châu Sa,[1] sinh ngày 26 tháng 5 năm 1927 tại làng Tân Hiệp, quận Châu Thành, tỉnh Sa Đéc (nay là xã An Hiệp (ghép hai xã An Tịch và Tân Hiệp), huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp). Tuy nhiên, nguyên quán của cha bà, lại ở Điện Bàn, Quảng Nam. Mẹ bà là bà Phan Thị Châu Lan (tục gọi là cô Mè, 1904-1944), là người con gái thứ hai của nhà chí sĩ Phan Châu Trinh.

Cha của bà là ông Nguyễn Đồng Hợi từng làm tham tá công chánh thời Pháp thuộc, làm công tác họa đồ (nên ông còn được gọi là Họa đồ Hợi) nên thuở nhỏ gia đình bà cư trú tại Phnôm Pênh, Campuchia, do đó bà được cho ăn học ở một trường nổi tiếng ở Đông Dương thời bấy giờ tại Phnôm Pênh là trường Lycée Sisowath. Bà được học tiếng Pháp ở đây cho hết tú tài I, và học rất khá.

Năm 1944, mẹ bà qua đời lúc bà mới 17 tuổi, bà theo gia đình trở về nước và bắt đầu tham gia các hoạt động yêu nước trong phong trào sinh viên học sinh như cứu tế và cướp chính quyền tại Sài Gòn. Sau khi Pháp tái chiếm Nam Bộ cuối năm 1945, cha bà ra chiến khu theo lời kêu gọi của Ủy ban hành chánh kháng chiến Nam Bộ (sau được kết nạp Đảng Cộng sản Việt Nam, Lê Đức Anh – sau này là Đại tướng, Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam – là một trong hai người giới thiệu). Riêng bà ở lại để chăm sóc các em, vừa hoạt động bí mật cho phong trào Việt Minh khối sinh viên học sinh và phụ nữ. Lúc này, bà lấy bí danh là Yến Sa [2]. Năm 1948, bà được kết nạp Đảng Cộng sản Đông Dương [3]. Năm 1951, bà bị thực dân Pháp bắt giam và bị tra khảo tại bót Catinat, sau đó bị giam ở Khám Lớn Sài Gòn rồi khám Chí Hòa (1951-1953).

Năm 1954, bà ra tù và tham gia luôn vào phong trào hoà bình đòi thi hành Hiệp định Genève. Năm 1955, bà được điều ra Bắc tập kết và được đào tạo thêm theo chương trình bồi dưỡng cán bộ đặc biệt.

Trở thành nhà ngoại giao[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập. Năm 1962, bà được điều trở lại miền Nam với cái tên mới là Nguyễn Thị Bình, giữ chức vụ Ủy viên Trung ương Mặt trận Giải phóng, hoạt động ở mảng đối ngoại, kiêm Phó Tổng thư ký Hội Phụ nữ Giải phóng.

Năm 1963 bà sang Trung Quốc và được lãnh tụ Mao Trạch Đông tiếp.

Cuối năm 1968, bà được cử làm Trưởng đoàn đàm phán của Mặt trận Giải phóng sang Paris dự Hội nghị Paris về Việt Nam, đến đầu tháng 1 năm 1969, ông Trần Bửu Kiếm giữ chức vụ trưởng đoàn, còn bà được rút về nước để chuẩn bị cho việc thành lập Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.

Ngày 6 tháng 6 năm 1969, Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam được thành lập, bà được cử làm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. Sau đó bà lại trở sang Paris đảm nhận lại chức vụ Trưởng đoàn đàm phán của Chính phủ lâm thời. Trong suốt thời gian 1968-1972, bà nổi tiếng trong các cuộc họp báo tại hội nghị 4 bên tại Paris, với phong cách ngoại giao lịch lãm và duyên dáng, được giới truyền thông đặt cho biệt hiệu Madame Bình.

Khi Hiệp định Paris được ký kết năm 1973, bà là người đại diện của Cộng hòa miền Nam Việt Nam, một trong bốn bên ký vào bản Hiệp định.

Lịch sử ngành ngoại giao Việt Nam ghi nhận bà Nguyễn Thị Bình là nữ bộ trưởng đầu tiên.

Các chức vụ thời bình[sửa | sửa mã nguồn]

Sau sự kiện 30 tháng 4, bà làm Bộ trưởng Bộ Giáo dục (1976-1987), rồi Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Quốc hội, Phó trưởng Ban Đối ngoại Trung ương Đảng (1987-1992). Bà còn là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá V (03/1982-1986), Đại biểu Quốc hội từ khoá VI đến khoá X (1976-2002).

Năm 1992, tại kỳ họp Quốc hội khóa IX, bà được bầu làm Phó chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và giữ chức vụ này liên tục trong 10 năm (1992-2002). Bà là người phụ nữ Việt Nam thứ hai giữ chức vụ phó nguyên thủ[4] sau bà Nguyễn Thị Định – Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước (tương đương Phó Chủ tịch nước hiện nay).

Sau khi nghỉ hưu vào năm 2002, bà tiếp tục làm Chủ tịch của Quỹ Bảo trợ trẻ em Việt Nam. Năm 2003, bà thành lập Quỹ Hòa bình và phát triển Việt Nam và làm Chủ tịch của tổ chức này cho đến nay. Ngoài ra, bà cũng là Chủ tịch danh dự của Hội nạn nhân chất độc da cam/đioxin Việt Nam kể từ khi hội này được thành lập vào tháng 1/2004. Năm 2001, bà được Chủ tịch nước Trần Đức Lương trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh.

Gia đình[sửa | sửa mã nguồn]

Bà sinh ra ở trong 1 gia đình có 6 anh chị em, cha bà là ông Nguyễn Đồng Hợi, mẹ là bà Phan Thị Châu Lan. Ông ngoại bà là nhà hoạt động chính trị Phan Châu Trinh.

Bà lập gia đình với ông Đinh Khang[5] năm 1955. Họ có hai người con: Đinh Nam Thắng (sinh năm 1956) và Đinh Thùy Mai (sinh năm 1960). Ông Đinh Khang qua đời năm 1989.

Tác phẩm[sửa | sửa mã nguồn]

  • Gia đình, bạn bè, đất nước (hồi ký), Nhà xuất bản Tri Thức, Hà Nội, 2012 (đã được dịch sang tiếng Pháp, tiếng Anh và tiếng Nhật)

Phong tặng[sửa | sửa mã nguồn]

  • Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng (Đảng Cộng sản Việt Nam), trao ngày 31/8/2017[6]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Có tài liệu ghi tên bà được đặt ghép từ địa danh nơi bà sinh ra là Sa Đéc và lấy từ chữ Châu từ chữ lót của ông ngoại và thân mẫu bà
  2. ^ Có tài liệu ghi là Kim Sa
  3. ^ lúc đó đã rút vào bí mật, hoạt động dưới tên gọi Hội nghiên cứu Chủ nghĩa Mác ở Đông Dương
  4. ^ Người phụ nữ đầu tiên là bà Nguyễn Thị Định, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước 1987-1992
  5. ^ sau là Đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam
  6. ^

    “Trao Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng tặng đồng chí Nguyễn Thị Bình”. Báo Nhan dân. 31 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2017.

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

  • Phan Châu Trinh

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

  • BBC Phỏng vấn bà Nguyễn Thị Bình
  • Thông tin trên www.vnn.vn
  • Thông tin tại www.mofa.gov.vn
  • Phỏng vấn Nguyễn Thị Bình, 1981


Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Nguyễn_Thị_Bình&oldid=64902417”

Từ khóa: Nguyễn Thị Bình, Nguyễn Thị Bình, Nguyễn Thị Bình

LADIGI – Công ty dịch vụ SEO Website giá rẻ, SEO từ khóa, SEO tổng thể cam kết lên Top Google uy tín chuyên nghiệp, an toàn, hiệu quả.

Nguồn: Wikipedia

Scores: 4.3 (150 votes)

100 lần tự tìm hiểu cũng không bằng 1 lần được tư vấn