Nhịp thơ là gì? Cách xác định nhịp thơ: nhịp thơ 2 2 là gì, nhịp thơ 1/3/3 là gì, nhịp thơ 4/3 là gì mới nhất 2023

Nhịp thơ là gì?

Trong thơ ca, Nhịp là cấu trúc tiết tấu cơ bản của một bài thơ hay các dòng trong một bài thơ. Nhiều hình thức truyền thống thơ ca yêu cầu một Nhịp thơ đặc biệt, hay một tập hợp cụ thể về các Nhịp được sử dụng theo một thứ tự cụ thể. Việc nghiên cứu, sử dụng Nhịp và hình thức trong nghệ thuật thi ca đều được biết như là phép làm thơ. (Trong ngôn ngữ, “Phép làm thơ” được dùng trong cách hiểu thông thường bao gồm không chỉ vấn đề Nhịp thơ mà còn ở khía cạnh tiết tấu của văn xuôi, dù là thể bác học hay thể dân gian, điều này là vô cùng đa dạng trong nền thơ văn giữa các nước và đôi khi giữa các dòng Thơ ca khác nhau.)
Đi đến phương đông ngắm phướng tây
Ở trong lòng mẹ nghe mẹ hát

Đặc điểm 

Sự phân loại các yếu tố chính có thể được xác định khi phân loại Thơ và Nhịp của nó.

Chất lượng và số lượng Nhịp Thơ

Nhịp của hầu hết các bài Thơ ở phương Tây và một số nơi khác dựa trên cấu trúc của các âm tiết trong các hình thức Thơ cụ thể. Nhịp thơ phổ biến trong Thơ ca Anh được gọi là Nhịp thơ chất lượng, với những âm tiết được nhấn tại các quãng thường xuyên(Ví dụ: Trong Nhịp 5 iambic, thường mọi âm tiết đều được tính). Nhiều nước sử dụng ngôn ngữ Romance dùng sơ cấu(scheme) giống nhau ngoại trừ việc vị trí của một âm tiết nhấn cụ thể(ví dụ âm cuối cùng) cần được cố định. Nhịp của Thơ ca cổ điển Đức về ngôn ngữ như ngôn ngữ miền Bắc nước Đức và tiếng anh cổ về cơ bản là khác nhau, nhưng vẫn duy trì cấu trúc nhấn.

Một vài ngôn ngữ cổ điển, trái lại, sử dụng một sơ cấu khác được biết như “Nhịp thơ số lượng”(“quantitative metre”), với cấu trúc dựa trên độ dày của âm tiết(syllable weight) hơn là khái niệm nhấn. Trong nhịp 6 của anh hùng ca(Dactylic hexameter “heroic hexameter” hay “the meter of epic”) trong Thơ ca cổ điển La tin và hy lạp cổ Điển, ví dụ, mỗi 6 “cước” tạo thành dòng “dactyl”(dài-ngắn-ngắn) hay “spondee”(dài-dài): một “âm tiết dài” về cơ bản là một âm tiết được phát âm dài hơn so với âm tiết ngắn: đặc biệt, một âm tiết chứa một nguyên âm dài hay nhị trùng âm(diphthong) hay được theo sau bởi hai phụ âm. Cấu trúc nhấn trong các từ không làm thay đổi Nhịp của Thơ. Một vài ngôn ngữ cổ điển khác cũng dùng “Nhịp thơ số lượng”, như tiếng Phạn và Arabic cổ(nhưng không được sử dụng trong Kinh Thánh Do Thái).

Cuối cùng, các ngôn ngữ không nhấn âm có ít hay không có sự khác nhau về độ dài của âm tiết, như là ngôn ngữ Anh và ngôn ngữ Trung, cấu tạo nên câu thơ chỉ từ số lượng các âm tiết. Hình thức Thơ phổ biến nhất tại Pháp là “Alexandrine”, với 12 âm tiết trong một câu thơ, và tại Trung Quốc với Thơ 5 chữ, là 5 âm tiết. Nhưng vì mỗi chữ Hán chỉ được phát âm với một âm tiết trong một giọng nhất định, Dòng Thơ cổ điển Trung Hoa cũng có nhiều quy luật chặt chẽ được đặt ra, như là luật cân đối hay phép đối ngẫu giữa các dòng.

Cước

Trong Thơ ca truyền thống của nhiều nước phương Tây Nhịp của một bài thơ có thể được mô tả như một chuỗi cước,[1] mỗi cước là một chuỗi đặc biệt của các loại âm tiết – như là sự phụ thuộc vào việc không nhấn/nhấn(quy tắc của Thơ Anh) hay dài/ngắn(hầu hết trong Thơ cổ của Latin và Thơ Hy Lạp).

“Iambic pentameter”, một Nhịp phổ biến trong Thơ Anh, được dựa trên một chuỗi 5 cước iambic hay iambs, mỗi cước chứa một âm tiết không nhấn(ở đây kí hiệu là “x” trên âm tiết) được theo sau bởi một âm tiết nhấn(ở đây kí hiệu là “/” trên âm tiết) – “da-Dum” = “x /”:


Cách tiếp cận để phân tích và phân loại Nhịp thơ này bắt nguồn từ những nghệ sĩ bi kịch và nhà thơ Hy Lạp cổ đại như Homer, Pindar, Hesiod, và Sappho.

Tuy nhiên một vài Nhịp có một Tiết tấu thông dụng với những dòng mà rất khó mô tả nếu sử dụng cước. Điều này thể hiện trong Thơ Sanskrit; xem thêm về cước Vedic và cước Sanskrit. (Mặc dù thể thơ này đôi khi cũng sử dụng cước trong thực tế, “một cước” này dài hơn hay ít hơn một câu). Điều này cũng xuất hiện trong Nhịp của các thể loại Thơ phương Tây, như là câu thơ 14 âm tiết(hendecasyllable) sở trường của Catullus và Martial, những câu thơ này có thể được mô tả như sau::

x x — ∪ ∪ — ∪ — ∪ — —

(với “-“: dài; “∪”: ngắn; và “x x”: có hiểu theo nhiều cách như “-∪” hay “— —“ hay “∪ —”)

Phân loại

Foot type Style Stress pattern Syllable count
Iamb Iambic Unstressed + Stressed Two
Trochee Trochaic Stressed + Unstressed Two
Spondee Spondaic Stressed + Stressed Two
Anapest or anapaest Anapestic Unstressed + Unstressed + Stressed Three
Dactyl Dactylic Stressed + Unstressed + Unstressed Three
Amphibrach Amphibrachic Unstressed + Stressed + Unstressed Three
Pyrrhic Pyrrhic Unstressed + Unstressed Two

[1]
Nếu dòng chỉ có một cước, nó được gọi là monometer; hai cước, dimeter; ba cước, trimeter; bốn cước là tetrameter; 5 cước là pentameter; 6 cước là hexameter, 7 cước là heptameter và 8 cước là octameter. Ví dụ, cước đó thuộc loại iambs, và nếu có 5 cước trong một dòng, thì nó được gọi là “iambic pentameter”. Nếu cước là Dactyl và có 6 cước trong một dòng, thì nó được gọi là “dactylic hexameter”.

Điểm nghỉ

Đôi khi chúng ta sẽ dừng một cách tự nhiên tại giữa câu hơn là tại kết thúc của câu đó. Điều này được gọi là một điểm nghỉ. Ví dụ rõ ràng nhất cho điều này là bài Thơ “The Winter’s Tale” của William Shakespeare; “điểm nghỉ” được kí hiệu bởi dấu ‘/’:

It is for you we speak, / not for ourselves:
You are abused / and by some putter-on
 That will be damn’d for’t; / would I knew the villain, I would land-damn him. / Be she honour-flaw’d,
 I have three daughters; / the eldest is eleven

Trong Thơ ca Latin và Hy Lạp, một “điểm nghỉ” là một điểm dừng trong một cước được quy ước bởi một từ.

“Điểm nghỉ” cũng xuất hiện trong Nhịp thơ theo âm tiết của Thơ ca Pháp và Ba Lan, và thể “osmerac” (octosyllable) và”deseterac” (decasyllable) của những bài thơ dân gian Serbocroatian.

Sự liên tục

Trái với “điểm nghỉ”, sự liên tục là một cấu trúc chưa hoàn chỉnh tại cuối mỗi câu; ý nghĩa vẫn tiếp tục sang câu tiếp theo, không có dấu nghỉ. Cũng lấy ví dụ từ bài Thơ The Winter’s Tale của Shakespeare:

I am not prone to weeping, as our sex Commonly are; the want of which vain dew Perchance shall dry your pities; but I have That honourable grief lodged here which burns Worse than tears drown.

Sự đa dạng của Nhịp thơ

Những bài Thơ với một cấu trúc thông dụng về Nhịp thơ thường có rất ít dòng, điều này là đối nghịch với cấu trúc của Nhịp thơ. Một sự biến đổi thường dùng là sự đảo ngược một “cước”, cái mà biến một iamb (“da-DUM”) thành một trochee (“DUM-da”). Một phương pháp biến đổi khác là một câu thơ “headless”, nghĩa là bỏ đi âm tiết đầu trong “cước” đầu tiên. Tuy nhiên, có một cách biến đổi thứ 3 gọi là “catalexis”, với việc cuối câu bị rút ngắn đi một cước hoặc hai cước hay một phần. Một ví dụ cụ thể của dạng này là tại cuối mỗi câu trong bài “Keats’ ‘La Belle Dame sans Merci’”:

Lịch sử

Việc sử dụng Nhịp trong thơ được chứng thực trong ngôn ngữ Indo-European cổ xưa. Nhịp thơ được biết một cách rõ ràng cùng lúc và cũng được xem như là duy nhất đánh dấu cuối thời kì đồ đồng là thánh kinh Rigveda. Việc các văn bản cổ xưa của khu vực phía Nam như người Sumer, Ai Cập hay Semitic không sử dụng Nhịp đang gây nhiều ngạc nhiên trong giới học thuật, và có thể một phần là do tính chất của các văn bản thòi kì đồ đồng. Trong thực tế, có nhiều nỗ lực trong việc phục hồi Nhịp trong các bài Thơ của kinh Hebrew, ví dụ như của Gustav Bickell hay Julius Ley, nhưng công trình của họ vẫn chưa đủ sức thuyết phục. Đầu thời kì đồ sắt, Nhịp thơ được tìm thấy trong tác phẩm Avesta của Iran và các tác phẩm của người Hy Lạp do Homer và Hesiod thực hiện. Thơ Latin xuất hiện trong thời kì ngôn ngữ Latin cổ(Thế kỉ thứ 2 TCN), thể hiện trong Thơ Saturnian. Thơ ca Ba Tư phát triển một cách mạnh mẽ trong thời kì Sassanid. Thơ ca Tamil xuất hiện những năm đầu sau công nguyên có thể được biết như là ngôn ngữ phi Indo-European sớm nhất.

Thơ ca thời trung cổ cũng có hệ thống Nhịp thơ chặt chẽ, những truyền thống còn tồn tại đến ngày nay rất đa dạng như thể thơ Minnesang của Châu Âu, Thơ Trouvère hay Bardic, Thơ Ba Tư cổ điển và Thơ Sanskrit, Thơ Đường của Trung Quốc hay thể Thơ Man’yōshū của thời kì Nara tại Nhật Bản. Thời đại Phục Hưng và thời tiền hiện đại tại Châu Âu được đặc trưng bởi sự quay trở lại phong cách thời cổ đại, một truyền thống được bắt đầu từ thời đại của nhà thơ Petrarch và kéo dài cho đến thời kì của Shakespeare và Milton.

Những tư tưởng trái chiều

Không phải tất cả nhà thơ đều chấp nhận ý kiến cho rằng Nhịp là yếu tố cốt lõi của Thơ. Những nhà thơ Mỹ thế kỉ 20 như Marianne Moore, William Carlos Williams và Robinson Jeffers là những nhà thơ tin rằng Nhịp thơ do chính con người tạo ra và không phải là thành phần chính trong bản chất của nó. Trong một tiểu luận có nhan đề “Robinson Jeffers, & The Metric Fallacy” Dan Schneider đồng tình với những đánh giá cảm tính của Jeffers: “Sẽ là gì nếu ai đó thật sự nói với bạn rằng mọi bản nhạc được sáng tác chỉ với 2 nốt? Hay nếu có một người tuyên bố rằng chỉ có hai màu chủ đạo trong mọi sự sáng tác? Bây giờ, hãy xem xét nếu những điều này đúng. Chúng ta có thể tưởng tượng được sự nặng nề và máy móc của thể loại nhạc này. Hãy suy nghĩ về một nền nghệ thuật của thị giác mà thiếu không chỉ màu sắc, mà còn những gam màu nâu đỏ và thậm chí sắc thái xám.” Jeffers gọi kĩ thuật của ông là “lăn tròn việc nhấn âm”(“ “rolling stresses”).

Moore thậm chí tiến xa hơn cả Jeffers, khi tuyên bố một cách cởi mở rằng Thơ của bà được viết trong hình thức âm tiết và hoàn toàn không sử dụng Nhịp. Các dòng thơ âm tiết trong bài thơ “Poetry” nổi tiếng của Moore thể hiện sự coi thường của bà đối với việc sử dụng Nhịp và các hình thức khác trong Thơ ca. Thậm chí cấu trúc âm tiết được sử dụng trong bài Thơ cũng không hoàn toàn cố đinh:
nor is it valid
to discriminate against “business documents and
school-books”: all these phenomena are important. One must make a distinction
however: when dragged into prominence by half poets, the result is not poetry

Williams thì cố gắng tạo nên một thể Thơ mà chủ đề của nó tập trung vào cuộc sống của những con người bình thường. Ông nghĩ ra khái niệm “Cước biến hóa”. Williams chối bỏ Nhịp thơ truyền thống trong hầu hết các bài thơ của ông, đặc biệt yêu thích những gì mà ông gọi là “Những thành ngữ bình dân”. Một nhà thơ khác cũng quay lưng lại với khái niệm Nhịp thơ truyền thống là nhà thơ Anh Gerard Manley Hopkins. Nét mới duy nhất trong Thơ của ông là những gì mà ông gọi là “Nhịp nhảy”(“ sprung rhythm”). Ông tuyên bố rằng hầu hết những bài Thơ được viết trong cấu trúc Nhịp truyền thống được kế thừa từ phía vùng Norman của di sản văn học Anh quốc, được dựa trên những nhóm lặp lại của hai hay ba âm tiết, với âm tiết nhấn rớt vào một cùng một chỗ của mỗi nhóm. “Nhịp nhảy” được thiết kế dựa vào “cước” với một số lượng đa dạng các âm tiết, thường là từ một đến bốn âm tiết mỗi cước, với âm nhấn thường rớt vào âm tiết đầu trong một cước.

Từ khóa: Nhịp thơ

nhịp thơ là gì
nhịp thơ
cách xác định nhịp thơ
nhịp trong thơ là gì
thế nào là nhịp thơ
nhịp thơ là j
ví dụ về nhịp thơ
các loại nhịp thơ
nhịp thơ 2 2 là gì
nhịp thơ 1/3/3 là gì
iambic tetrameter là gì
nhịp thơ 4/3 là gì
nhịp thơ 2/3 là gì
các nhịp thơ
nhịp thơ 2/2/2 là gì
iambic pentameter là gì
nhịp thơ là
nhịp thơ 3/4 là gì
nhịp thơ 4/3
nhịp của bài thơ
nhịp thơ 4/3 có tác dụng gì
nhịp 2.4 là gì

LADIGI – Công ty dịch vụ SEO Web giá rẻ, SEO từ khóa, SEO tổng thể cam kết lên Top Google uy tín chuyên nghiệp, an toàn, hiệu quả.

Scores: 4 (198 votes)

100 lần tự tìm hiểu cũng không bằng 1 lần được tư vấn