Thất ngôn bát cú là một phong trào thiền nổi tiếng trong lịch sử của Trung Quốc, được khởi xướng và phát triển bởi nhóm các tăng sĩ Thiền thuộc Vương triều Tống thời trung đại (960-1279). Thất ngôn bát cú tức là bảy câu nói và tám cú đối, là cách thức bày tỏ các sự tưởng tượng của tăng sĩ, thông qua lời nói đơn giản, dễ hiểu và đầy hàm ý. Trong đó, bảy câu nói được xem là trọng tâm của phong trào này, là những câu nói mang tính triết lý sâu sắc và có sức ảnh hưởng lớn đến tư tưởng của dân chúng. Thất ngôn bát cú là một phong trào thiền lịch sử quan trọng, đã có nhiều đóng góp cho văn hóa, triết lý và đạo đức của con người, và vẫn được nhiều người quan tâm và tìm hiểu đến ngày nay.
Thuyết Minh Đặc Điểm Thể Thơ Thất Ngôn Bát Cú
Thất ngôn bát cú là một thể thơ truyền thống trong văn học Việt Nam. Theo tên gọi, thất ngôn bát cú có bảy câu thơ, mỗi câu có tám chữ. Nội dung của thể thơ này thường là những suy tư sâu sắc về đời sống, tình cảm, thiên nhiên và nhân sinh.
Đặc điểm của thất ngôn bát cú là sử dụng ngôn từ tinh tế, hình ảnh sống động và nội dung đầy ý nghĩa. Thể thơ này thường đi kèm với những hình tượng tự nhiên, như núi rừng, sông nước, mây trời, hoa lá, chim muông,… để tạo ra những bức tranh tư tưởng, giúp người đọc suy ngẫm, tìm hiểu sâu sắc về cuộc sống.
Ngoài ra, thất ngôn bát cú còn có những đặc điểm khác như tuần hoàn, tương phản, chủ động và thụ động. Trong cách kết hợp các đặc điểm này, thất ngôn bát cú tạo ra sự đan xen tinh tế giữa hình tượng và ý nghĩa, giảng đưa tinh thần hiển nhiên của đạo đức, phong thái, và đỗi mới ở cuộc sống con người.
Với sức mạnh tinh tế của ngôn từ và nội dung, thất ngôn bát cú đã trở thành một trong những thể thơ phổ biến và được yêu thích nhất trong văn học Việt Nam. Chúng vẫn đóng vai trò quan trọng trong giáo dục, giải trí, và giữ văn hóa truyền thống.
Ngữ văn 8 + 9 : Thuyết minh về thể thơ thất ngôn bát cú đường luật
Thất ngôn bát cú
Thất ngôn bát cú (七言八句) là loại thơ mỗi bài có tám câu và mỗi câu bảy chữ. Tức là mỗi bài thơ chỉ có 56 chữ.
Nguồn gốc
Thể thơ thất ngôn bát cú là cổ thi, xuất hiện sớm ở Trung Quốc. Đến đời nhà Đường mới được các nhà thơ đặt quy định cụ thể, rõ ràng, kéo dài trong chế độ phong kiến. Thể thơ này đã được các đời vua Trung Quốc và Việt Nam dùng cho việc thi cử tuyển chọn nhân tài, rất phổ biến ở Việt Nam vào thời Bắc thuộc, chủ yếu được những cây bút quý tộc sử dụng.
Thể thơ có luật rất chặt chẽ. Tuy nhiên, trong quá trình sáng tác nhất là vào phong trào thơ mới tại Việt Nam từ năm 1925, bằng sự sáng tạo của mình, các tác giả đã làm giảm bớt tính gò bó, nghiêm ngặt của luật bằng – trắc để tâm hồn lãng mạn có thể bay bổng trong từng câu thơ.
Luật bằng trắc
Cấu trúc bài thơ thất ngôn bát cú gồm 8 câu, mỗi câu 7 chữ. Nếu tiếng thứ hai của câu 1 là vần bằng thì gọi là thể bằng, là vần trắc thì gọi là thể trắc. Thể thơ quy định rất nghiêm ngặt về luật bằng trắc. Luật bằng trắc này đã tạo nên một mạng âm thanh tinh xảo, uyển chuyển cân đối làm lời thơ cứ du dương như một bản tình ca. Người ta đã có những câu nói vấn đề về luật lệ của bằng trắc trong từng tiếng ở mỗi câu thơ: các tiếng nhất – tam – ngũ bất luận còn các tiếng: nhị – tứ – lục phân minh. Thể bằng là các dấu thanh và huyền. Thể trắc là 4 dấu còn lại(dấu sắc,dấu hỏi, dấu nặng, dấu ngã)
- Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!
- Thanh:..B………..T……….B…
- Trần thế em nay chán nửa rồi.
- Thanh:T……..B…………..T…
- (Muốn làm thằng cuội, Tản Đà)
- Hay bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan:
- Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà T T B B T T B Cỏ cây chen đá lá chen hoa T B B T T B B
Luật thơ
Thông thường, thơ thất ngôn bát cú có thể làm theo 2 cách thông dụng:
- Thất ngôn bát cú theo Đường luật: Có quy luật nghiêm khắc về Luật, Niêm và Vần thường có bố cục rõ ràng.
- Thất ngôn bát cú theo Cổ phong: Không theo quy luật rõ ràng, có thể dùng một vần (độc vận) hay nhiều vần (liên vận) nhưng vần vẫn phải thích ứng với quy luật âm thanh, có nhịp bằng trắc xen nhau cho dễ đọc.
Còn một cách khác là theo Hán luật. Những bài thơ thất ngôn bát cú chữ Nôm thường được gọi là thơ Hán luật.
Một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật (hay đúng ra là Hán luật vì là thơ Nôm) tiêu biểu:
“Qua đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan
(Chú ý cách gieo vần: Các tiếng cuối các câu 1, 2, 4, 6, 8 hiệp vần bằng với nhau).
- Bước tới đèo Ngang bóng xế tà,
- Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
- Lom khom dưới núi, tiều vài chú,
- Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.
- Nhớ nước đau lòng con quốc quốc,
- Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.
- Dừng chân đứng lại: trời, non, nước,
- Một mảnh tình riêng, ta với ta.
Trong đó:
- Hai câu đầu tiên (1 và 2) là 2 câu Đề dùng để: Mở Đề và Vào Đề (mở bài, giới thiệu...)
- Hai câu tiếp theo (3 và 4) là hai câu Thực dùng để:(miêu tả), yêu cầu của 2 câu này là đối nhau cả về thanh (bằng đối trắc hoặc ngược lại) và về nghĩa (Lom khom — Lác Đác, Dưới núi — Bên sông, Tiều vài chú — rợ mấy nhà)
- Hai câu 5 và 6 là hai câu Luận (suy luận), yêu cầu cũng đối nhau cả về thanh và nghĩa, tương tự như hai câu Thực ở trên
- Hai câu cuối cùng (7 và 8) là hai câu Kết (kết luận), không yêu cầu đối nhau.
Cách ngắt nhịp: 2/2/3 hoặc 4/3, 3/4
Tham khảo
100 lần tự tìm hiểu cũng không bằng 1 lần được tư vấn