
Dàn ý Phân tích nhân vật Bơ-men
Dàn ý 1
1. Mở bài
- Cụ Bơ men trong truyện ngắn “Chiếc lá cuối cùng” của nhà Văn O-hen-ri là một nhân vật tiêu biểu với tình thương và lòng nhân ái bao la.
2. Thân bài
- Hoàn cảnh: sống một mình ở một ngôi nhà trong khu phố nhỏ, nghèo nàn
- Công việc: họa sĩ, tự làm mẫu vẽ để kiếm sống qua ngày
- Là một nghệ sĩ chân chính với khát khao vẽ một kiệt tác bất hủ
- Có trái tim với tình thương bao la
- Hành động: trong đêm lạnh lẽo cô đơn đã dồn hết sức lực của mình vẽ nên một chiếc lá mang hy vọng sống cho cô gái trẻ
3. Kết bài
- Tác phẩm của cụ tuy đơn giản nhưng đầy ý nghĩa, cụ Bơ-men chính là một biểu tượng tuyệt vời cho lòng nhân ái cao cả, cho vẻ đẹp của những người làm nghệ thuật chân chính: “nghệ thuật vị nhân sinh”.
Dàn ý 2
A. Mở bài:
- Giới thiệu về tác giả O Hen-ri và truyện ngắn “Chiếc lá cuối cùng”
- Giới thiệu và khái quát phẩm chất của nhân vật cụ Bơ-men: Cụ Bơ-men không chỉ là một người có tấm lòng nhân hậu, đức hi sinh cao cả mà còn là một nghệ sĩ thực thụ, cống hiến cho nghệ thuật.
B. Thân bài:
Luận điểm 1: Lý lịch nhân vật
- Cụ Bơ-men là một họa sĩ già, nghèo, thường ngồi làm mẫu vẽ cho các họa sĩ khác để kiếm tiền, suốt bốn chục năm cụ chỉ mơ ước vẽ được một kiệt tác của riêng mình.
- Cụ sống ở tầng dưới, trong tòa nhà mà Giôn-xi và Xiu đang ở, họ là 3 người bạn thân với nhau.
Luận điểm 2: Cụ Bơ-men là một người nghệ sĩ thực thụ
- Là một họa sĩ nghèo, cụ Bơ-men luôn nuôi mong ước vẽ được một kiệt tác, được cống hiến cho nghệ thuật.
- Khi vẽ kiệt tác “Chiếc lá cuối cùng”, cụ đã vẽ bằng tất cả niềm say mê, tình yêu dành cho nghệ thuật dù trong đêm tối gió rét, cụ vẫn muốn thực hiện tác phẩm đó, đơn giản chỉ để cứu được cô bé Giôn-xi. Nghệ thuật trong cụ chính là nghệ thuật chân chính, nghệ thuật hướng đến con người.
Luận điểm 3: Đức hi sinh cao cả và lòng vị tha của cụ Bơ-men
- Kiệt tác của cụ Bơ-men chính là biểu hiện cao nhất của đức hi sinh và lòng vị tha.
- Khi Giôn-xi đang mất niềm tin vào cuộc đời, và sự sống, cụ đã vẽ chiếc lá cuối cùng trong một đêm gió bão bập bùng với hi vọng nó có thể níu kéo lại niềm hi vọng muốn sống của cô bé. Lòng vị tha, sống vì người khác ở cụ thật đáng trân trọng.
- Cụ đã dùng cả tính mạng của mình để đổi lấy sự sống cho một cô gái trẻ, kiệt tác “Chiếc lá cuối cùng” đã cứu sống được Giôn-xi nhưng cũng đã cướp đi sinh mạng của cụ. Một mạng đổi một mạng, nhưng với cụ, Giôn-xi còn trẻ và cô còn tương lai, cô đáng được sống hơn một người già đã “gần đất xa trời” như cụ. Sự hi sinh cao cả ấy xuất phát từ tấm lòng của một nghệ sĩ chân chính, của một con người vị tha, nhân hậu.
- Tác giả để Xiu kể về cụ Bơ-men vào cuối tác phẩm để kết thúc câu chuyện gây ra sự bất ngờ cho cả Giôn-xi và người đọc, làm nổi bật lên đức hi sinh và lòng vị tha của cụ.
- Xiu gọi bức vẽ là “ kiệt tác” không chỉ bởi nó quá đẹp, quá giống thật mà còn vì nó mang cả tấm lòng nhân đạo của cụ Bơ-men, tình thương giữa những người nghèo khổ, và nó có giá trị bằng chính mạng sống của cụ – một thứ không gì có thể mua được.
C. Kết bài:
- Khái quát lại phẩm chất của nhân vật: Cụ Bơ-men khiến người đọc xúc động bởi những phẩm chất đáng quý của một con người nhỏ bé nhưng lại cao thượng vô cùng.
- Liên hệ và đánh giá nghệ thuật viết truyện hấp dẫn của O Hen-ri và tấm lòng nhân đạo của ông.
Bài văn phân tích cụ Bơ-men trong tác phẩm “Chiếc lá sau cuối” của O Hen-ri số 1
Đọc truyện “Chiếc lá sau cuối” của nhà văn Mĩ Ô-Hen-ri ta bồi hồi xúc động về tấm lòng nhân ái cao quý của một người hoạ sĩ nghèo, cô đơn. Vì tình thương yêu con người, để đem lại niềm tin và sự sống cho một người, Bơ-men đã sẵn sàng hi sinh cả tính mạng của tớ.
Câu chuyện kể về hai họa sỹ Giôn-xi và Xiu, họ cùng chung sở thích về nghệ thuật… và cùng nhau thuê một căn phòng ở tầng thượng để làm xưởng vẽ. Làng Grinnich kì dị và cổ kính này là một “biệt khu” phía tây công viên Oa- sinh-tơn với những phố xá chạy ngang chạy dọc lung tung, đây là nơi cư trú của những nghệ sĩ nghèo. Giôn-xi tội nghiệp đã bị chứng bệnh viêm phổi đánh ngã. Bệnh tình trầm trọng hoàn toàn có thể nói mười phần chỉ còn mong muốn một mà thôi.
Nhưng điều tệ hại nhất đến với Giôn-xi là nàng đã vô vọng nghĩ rằng mình không thể khỏi bệnh được. Giôn-xi chán ngán toàn bộ, không tồn tại niềm tin để bám víu, nàng đã cảm nhận được cái chết đang tới gần. Theo lời bác sĩ, y học cũng bó tay, mọi thứ thuốc men đều mất công dụng khi người bệnh không muốn sống nữa. Ngày ngày, Giôn-xi nhìn ra ngoài cửa sổ và đếm từng chiếc lá rụng, nàng đếm được: mười hai, mười một, mười v. v…
Giôn-xi đinh ninh rằng khi nào chiếc lá sau cuối trên cây thường xuân rụng thì nàng cũng ra đi. Xiu, hết lòng thương yêu như người chị, người mẹ, chăm sóc, khuyên nhủ, động viên nhưng bất lực, Giôn-xi vẫn sống trong vô vọng và chờ đón chiếc lá sau cuối lìa cành, chờ đón cái chết.
Làm thế nào để cứu Giôn-xi? Xiu tìm tới cụ Bơ-men kể cho cụ nghe về ý nghĩ kì quặc đó của Giôn-xi và mong muốn một sự cứu giúp. Bơ-men là một họa sỹ sống cô đơn trong một gian buồng tối om ở tầng dưới. Cụ đã ngoài sáu mươi, là ông già nhỏ nhắn có bộ râu loăn xoăn “lòa xòa xuống cái thân hình như thân hình một tiểu yêu”.
Bơ-men là một họa sỹ đã cầm bút vẽ bốn mươi năm nhưng đều gặp thất bại. Cụ phải kiếm sống bằng phương pháp làm người mẫu cho những họa sỹ. Nhưng người nghệ sĩ xấu số ấy vẫn nung nấu một mong ước cao đẹp sẽ “vẽ một bức tranh kiệt tác, nhưng vẫn chưa lúc nào bắt đầu cả”, ước mơ vẫn là ước mơ, nó vẫn nằm trên giá vẽ!
Nhưng bên trong con người kì quái, dữ tợn, lúc nào cũng sặc sụa mùi rượu loại nặng ấy lại có một trái đất tâm hồn rất phong phú, đẹp đẽ. Khi nghe Xiu kể lại chuyện đau buồn của người bạn Giôn-xi, cụ đã xúc động “cặp mắt đỏ ngầu, nước mắt chảy ròng ròng” và hét to lên: “Sao! Trên đời này lại có những người ngớ ngẩn muốn chết vì một cây leo chết tiệt nào đó rụng hết lá ư?”.
Lòng nhân ái được khơi dậy, thôi thúc người nghệ sĩ già cô đơn ấy phải tìm nhữngh cứu sống một con người bằng phương pháp đem lại một niềm tin, niềm mong muốn của sự sống. Và chỉ có chiếc lá, chiếc lá sau cuối của cây thường xuân bám trên bức tường gạch không lúc nào rụng mới cứu sống được Giôn-xi. Quả vậy, qua một đêm mưa vùi dập và những cơn gió phũ phàng, chiếc lá sau cuối vẫn còn đó đấy trên cây.
Sáng tỉnh dậy, Giôn-xi ngạc nhiên nhìn thấy chiếc lá vẫn còn đó đấy: “Em cứ tưởng là nhất định hôm đó nó đã rụng. Em nghe thấy gió thổi. Hôm nay nó sẽ rụng thôi và cùng lúc đó thì em sẽ chết”. Nhưng ngày hôm sau, chiếc lá vẫn còn đó đấy đó. Niềm mong muốn nhen nhóm trong lòng cô nàng, Giôn-xi vui vẻ quay về và bệnh tình cũng giảm dần, sự sống trỗi dậy.
Chiếc lá sau cuối, “một kiệt tác” của Bơ-men đã cứu sống Giôn-xi. Người nghệ sĩ già đó đã sáng tạo kiệt tác “Chiếc lá sau cuối” trong một hoàn cảnh thật đặc biệt. Ta hãy hình dung cái không gian, thời gian mà người nghệ sĩ ấy dồn hết tâm huyết để tạo thành một chiếc lá y rất thực, chiếc lá sau cuối trên cây leo thường xuân. Không gian và thời gian sáng tạo của Bơ-men thật khủng khiếp. Có lẽ trong lịch sử của hội họa nhân loại vẫn chưa từng có một họa sỹ nào đã cầm bút vẽ trong một hoàn cảnh đặc biệt như vậy.
Bất chấp hiểm nguy, trong cái đêm mưa gió khủng khiếp, trên một chiếc thang chênh vênh dựa vào tường, với ánh sáng mờ tỏ của chiếc đèn bão cầm tay, Bơ-men đã dồn hết tâm lực và tài năng để vẽ lên một chiếc lá. Bơ-men lặng lẽ vẽ không một ai hay biết, sáng hôm sau bác gác cổng thấy cụ ốm nặng trong căn phòng, giầy và áo quần trớt sũng, lạnh buốt. Rồi hôm sau, Bơ-men qua đời vì sưng phổi nặng.
Người nghệ sĩ ra đi vĩnh viễn nhưng để lại một kiệt tác. Đây là tác phẩm nghệ thuật đích thực trước tiên và sau cuối của Bơ-men, một kiệt tác duy nhất để lại cho đời như cụ đã hằng ước mơ. Mặc dù, lúc vẽ chiếc lá lên tường gạch, Bơ-men không tồn tại dụng ý làm nghệ thuật mà chỉ hành động với cùng 1 động cơ thôi thúc là tìm nhữngh giải thoát cô nàng khốn khổ ra khỏi sự ám ảnh của cái chết đang tới gần, trả một con người về với sự sống.
“Chiếc lá sau cuối” là kết tinh của một tấm lòng nhân ái cao quý, nó là một tác phẩm nghệ thuật chân chính. Điều đó nói lên rằng: nghệ thuật luôn luôn hướng tới sự sống và hạnh phúc của con người, người nghệ sĩ vì cuộc sống con người mà sáng tạo. Cao cả và thiêng liêng biết nhường nào khi người nghệ sĩ đã dám hi sinh cả tính mạng để phục vụ cho nghệ thuật. Bơ-men đã cứu sống một con người bằng nghệ thuật và người nghệ sĩ ấy đã đánh đổi bằng cả cuộc sống của chính bản thân mình.
Đọc “Chiếc lá sau cuối” của Ô. Hen-ri, chúng ta càng thêm tin tưởng ở con người, con người sống với nhau bằng tình nhân ái và lòng vị tha. Chúng ta cần trân trọng những tác phẩm nghệ thuật đích thực hướng tới con người, vì sự sống của con người.
Bài văn phân tích cụ Bơ-men trong tác phẩm “Chiếc lá sau cuối” của O Hen-ri số 2
Tình thương yêu trong cuộc sống được thể hiện trên rất nhiều ngôn ngữ và hành động. Có khi là cái nắm tay ấm cúng, có khi là sự san sẻ đồng cảm với nỗi đau mất mát với những người xấu số hơn mình. Có khi là sự giúp đỡ về vật chất hay những món quà đầy ý nghĩa sâu sắc trao tặng nhau vào những lúc khốn cùng của cuộc sống.
Tình thương yêu ấy bước vào văn học trở thành đẹp đẽ và lớn lao, nó khơi gợi và nâng đỡ tâm hồn con người đến với chân thiện mỹ trong đời sống. Cụ Bơ men trong truyện ngắn “Chiếc lá sau cuối” của nhà Văn O-hen-ri là một nhân vật như thế, một con người với tâm hồn nhân ái bao la đã cứu sống một cô họa sỹ trẻ đang đứng trước những giây phút sau cuối đấu tranh với sự sống của chính mình.
Cụ Bơ-men vốn cũng đều có hoàn cảnh như bao người họa sỹ khác sống ở một ngôi nhà trong khu phố nhỏ, cùng hai chị em Xiu và Giôn-xi, đời sống khó khăn, bình lặng qua ngày với những công việc tủn mủn. Có khi ông phải tự làm mẫu vẽ để kiếm sống qua ngày.
Song, dù khốn khổ nghèo khó, vẫn không làm mất đi khát vọng của ông, ông ước mơ một ngày nào đó hoàn toàn có thể vẽ nên kiệt tác của cuộc đời mình nhưng vẫn chưa thể hoàn thành ước nguyện ấy. Trong tinh thần của người họa sỹ già ấy luôn chứa chan nghĩa lực sống phi thường, cứng cỏi và vững lòng, sự yếu mềm của người khác luôn khiến cụ không hài lòng, bởi thế mà cụ Bơ -men luôn ” chế nhạo sự cay độc và yếu mềm của bất kể ai”.
Cụ Bơ men cũng là một người có trái tim giàu lòng thương yêu, cụ quyên tâm đến đời sống của những người xung quanh mình, đặc biệt là hai họa sỹ trẻ Xiu và Giôn xi, cụ như một vị dũng sĩ phi thường với trách rưới nhiệm bảo vệ cho hai cô nàng nhỏ như người cha bảo vệ những đứa con của tớ vậy.
Khi nghe Xiu kể vẻ hoàn cảnh của Giôn -xi cùng ý nghĩ đầy bi quan của cô nàng, cụ đau lòng khôn xiết, ánh nhìn đỏ ngầu, nỗi xúc động khôn nguôi cùng dòng nước mắt chảy ròng trên khuôn mặt nhăn nheo đã cho thấy một tấm lòng đồng cảm thiết tha của cụ. Lời thổn thức dịu dàng, nghẹn ngào : “Chà tội nghiệp cô nàng Giôn xi’ nghe sao mà thiết tha đến thế, đó là sự thương cảm từ tận đáy lòng cụ.
Khi được Xiu dẫn lên phòng bệnh của Giôn-xi, cụ thốt lên rằng: “Trời đây không phải là chỗ cho một con người tốt như cô Giôn-xi nằm. Một ngày kia, tôi sẽ vẽ một tác phẩm kiệt xuất và toàn bộ chúng ta sẽ đi khỏi nơi này” . Bây giờ đây, đó không phải là khát vọng ước mơ cho riêng mình nữa mà nó là ước mơ cho con người, gắn liền với tình thương và ước muốn cao quý mang đến cuộc sống đẹp đẽ hơn cho người xung quanh.
Điều mong muốn cùng tấm lòng cao quý ấy đã thôi thúc cụ vẽ nên một bức tranh tuyệt tác trong đêm mưa bão giá rét, tuyết rơi đầy trời. Hơn ai hết cụ hiểu được sức khỏe của tớ, thấy được sự hiểm nguy của tính mạng nhưng cụ đã chấp thuận hy sinh để mang lại niềm hy vọng cho cô nàng trẻ, gián tiếp trao cho Giôn xi sức mạnh tinh thần cứu lấy sự sống chính mình.
Chiếc lá của cụ Bơ men vẽ thật đẹp, đẹp không chỉ là bởi giống ý với chiếc lá bình thường khiến hai cô nàng trẻ không nghi ngờ mà nó còn đẹp bởi nhân nhữngh, bởi tấm lòng của người nghệ sĩ sáng tạo ra nó. Chiếc lá ấy là chiếc lá của niềm tin, hy vọng, chiếc lá ấy như một mầm sống thức tỉnh khát vọng sống và ước mơ của Giôn -xi.
Sau cùng cái chết của cụ Bơ men là niềm tiếc nuối xót xa cho một nhân nhữngh đẹp phải dừng bước sự sống trước cuộc đời, cô nàng trẻ Giôn-xi dần phục hồi tiếp tục sống và viết tiếp những ước mơ đẹp đẽ của bao người họa sỹ chân chính như cụ. Đọc những trang văn của O-hen -ri, nghĩ về cảnh một cụ già trong đêm lạnh lẽo cô đơn đã dồn hết sức lực của tớ vẽ nên một chiếc lá tuyệt mỹ.
Tác phẩm của cụ tuy đơn giản nhưng đầy ý nghĩa sâu sắc, cụ Bơ-men đúng là một hình tượng tuyệt vời cho lòng nhân ái cao quý, cho vẻ đẹp của những người làm nghệ thuật chân chính: “nghệ thuật vị nhân sinh”. Tác phẩm chiếc lá sau cuối là một bài ca ngọt ngào và dịu dàng về thương, lòng bác ái bao la.
Bài văn phân tích cụ Bơ-men trong tác phẩm “Chiếc lá sau cuối” của O Hen-ri số 3
O Hen-ri là nhà văn Mĩ chuyên viết truyện ngắn, và sáng tác rất nhiều. Có những năm, số lượng những truyện ngắn của ông sáng tác lên rất cao: 65 truyện năm 1904, 50 truyện năm 1905… Một số truyện mang ý nghĩa sâu sắc phê phán xã hội rõ rệt. Một số truyện khác thường nhẹ nhàng, toát lên tinh thần nhân đạo, thương yêu người nghèo khổ, rất cảm động.
“Chiếc lá sau cuối” là một truyện giàu tình yêu thương của những nghệ sĩ nghèo. Đặc biệt, nhân vật Bơ-men là nhân vật tiêu biểu cho tình yêu thương cao quý ấy. Tìm hiểu nhân vật Bơ-men, ta càng hiểu sức sống lâu dài của truyện Chiếc lá sau cuối.
Chiếc lá sau cuối là trái đất của những họa sỹ nghèo. Đó là không gian chật hẹp của Gri-niz bị chia nhỏ, chật chội. Đã chật chội lại mọc rêu và cô quạnh hoang tàn. Đó là không gian thích hợp cho những người nghèo cư ngụ. Họ gồm có ba họa sỹ: cụ Bơ-men và hai cô họa sỹ trẻ.
Thời gian họ quen nhau không lâu, thế mà ở họ lại sáng lên tình yêu thương ruột thịt hiếm có. Họ thu thập không tốt nhưng có chung một lòng yêu nghệ thuật, ước mơ sáng tác một tác phẩm để đời. Mùa đông băng giá là điều kiện để bệnh bệnh viêm phổi, tên phá hoại này so tài với mọi đối thủ. Hắn đánh vào Giôn-xi, cô họa sỹ nhỏ xíu, thiếu máu khiến cô ta lăn ra bất động. Nghèo, không tiền thuốc, không thân nhân ở gần, cô chỉ có một niềm tin đớn đau là cô đơn chuẩn bị cho chuyến đi xa xôi bí hiểm của tớ.
Và cô bệnh nhân ấy yên trí là mình không thể khỏi đã bình thản lạnh lùng làm cái việc nhìn qua cửa sổ, trong tư thế nằm trên giường bệnh đếm từng chiếc lá thường xuân, đang rụng dần trong gió lạnh. Đối với Giôn-xi, chiếc lá là hình tượng của thước đo thời gian, thước đo cuộc đời của cô. Cô rơi vào tình trạng bi quan đến mức có những ý nghĩ lạ lùng: “Những chiếc lá trên cây thường xuân, khi nào chiếc lá sau cuối rụng thì em cũng ra đi thôi. Em biết điều đó đã ba ngày nay rồi. Ông bác sĩ không nói với chị sao?”
May sao, Giôn-xi còn có Xiu luôn cận kề chăm sóc, an ủi cô: “Chị muốn ở bên cạnh em kia. Vả lại chị không muốn em cứ nhìn mãi những chiếc lá thường xuân vớ vẩn đó nữa”. Xiu đi tìm cụ Bơ-men, mời cụ ngồi làm mẫu để vẽ và trình diễn tâm trạng của Giôn-xi. Cụ đã ngoài sáu mươi và có một bộ râu như Môi-dơ của Mi-ke-lăng-giơ loăn xoăn trừ cái đầu như đầu thần Xa-tia lòa xòa xuống cái thân hình một tiểu yêu.
Bơ-men là người thất bại trong nghệ thuật. Cụ đã già rồi mà tấm vải vẽ vẫn còn đó đấy trống trơn. Cụ vẫn chưa vẽ được gì, chẳng phải cụ không tồn tại tài năng, mà đúng là cụ do dự, trăn trở gần suốt cuộc đời, vẫn chưa chắc chắn vẽ gì cho xứng đáng là một kiệt tác: Trên giá vẽ ở góc buồng là một tấm vải trống trơn, từ hai mươi lăm năm nay vẫn cứ chờ đón mãi nét vẽ trước tiên của bức tranh kiệt tác.
Có ước mơ chân chính, suy nghĩ đã nhiều nhưng vẫn còn đó đấy đó sự trăn trở!Biết vẽ gì? Ngay lúc Giôn-xi vô vọng, gần tuyệt mệnh là lúc cụ uống rượu nặng quá độ. Xiu tìm thấy cụ sặc sụa mùi rượu dâu loại nặng trong gian buồng tối om om của cụ ở tầng dưới. Có lẽ vì cụ vô vọng, trăn trở mãi mà vẫn không đặt bút vẽ được bức tranh kiệt tác.
Bên cạnh ước vọng cao quý về nghệ thuật, cụ còn có một tình cảm đặc biệt đối với hai cô họa sỹ như là tình cha con. Thực vậy, cụ là một ông già nhỏ nhắn dữ tợn, hay chế nhạo cay độc sự mềm yếu của bất kì ai, và tự coi minh là một con chó xồm lớn chuyên gác cửa bảo vệ hai nữ nghệ sĩ trẻ ở phòng vẽ tầng bên.
Với cá tính ấy, tình thương ấy, khi nghe kể về ý nghĩ kì quặc của Giôn-xy cụ phản ứng thật quyết liệt: “Sao trên đời này lại có những người ngớ ngẩn muốn chết vì một cây leo chết tiệt nào đó rụng hết lá ư? Tôi vẫn chưa lúc nào nghe thấy một chuyện như thế cả”. Tuy nhiên, đó chỉ là một thoáng, sự thực, cụ đang thai nghén một tác phẩm kiệt xuất, cụ sắp làm một việc đầy ý nghĩa sâu sắc hi sinh.
Một ngày mới lại về, Giôn-xi thều thào ra lệnh kéo chiếc màn để cô nhìn ra ngoài. Tất nhiên, Xiu không muốn nhưng vẫn tiến hành theo. Nhưng ô kìa, sau trận mưa và những cơn gió phũ phàng… vẫn còn đó đấy một chiếc lá thường xuân bám trên tường gạch. Tuy ở gần và cuống lá còn giữ màu xanh sẫm, nhưng rìa lá hình răng cưa, đã nhuộm màu vàng úa, tuy vậy, chiếc lá dũng cảm vẫn bám vào cành…
Một ngày qua cho tới hoàng hôn chiếc lá đơn độc vẫn bám lấy những cuống của nó ở trên tường và rồi màn đêm cùng với mưa và gió bấc lồng lộn đập mạnh vào cửa sỗ mưa rơi lộp độp… Chiếc màn xanh lại được kéo lên khi buổi sáng lại về. Chiếc lá thường xuân vẫn còn đó đấy đó.
Và Giôn-xi chợt hiểu ra có một chiếc gì đó làm cho chiếc lá sau cuối vẫn còn đó đấy đấy để em thấy rằng mình đã tệ ra làm sao và mong muốn một ngày nào đó sẽ được vẽ vịnh Na-plơ lại trỗi dậy trong cô: cùng với niềm mong muốn ấy nhựa sống lại lên men, nghị lực và mầm sống lại hồl sinh, khiến bác sĩ phải thốt lên: được năm phần mười rồi.
Như vậy, điều gì đã khiến Giôn-xi khỏe quay về? Có thể một phần do thuốc men phát huy hiệu lực, hoàn toàn có thể một phần do bàn tay chăm sóc chu đáo của Xiu. Nhưng bao trùm lên toàn bộ, cái đã lôi Giôn-xi ra khỏi con đường dẫn về cõi hư vô là màu xanh của chiếc lá thường xuân, chiếc lá sau cuối trên chiếc tường đối diện với phòng của họ.
Chiếc lá đó chẳng lúc nào nó rung rinh hoặc lay động khi gió thổi. Bởi vì đó đúng là tác phẩm kiệt xuất của cụ Bơ-men. Cụ đã vẽ nó vào cái đêm mà chiếc lá sau cuối đã rụng. Và đã tạo được tác phẩm kiệt xuất ấy, cụ Bơ-men đã không ngần ngại đổi nó bằng cuộc sống của chính mình. Nghệ thuật chân chính mang tính năng sinh thành và tái tạo. Nó thức dậy niềm tin và cuộc sống. Nó mở đường cho những khát vọng lớn lao, nó chắp cánh cho những ước mơ tái tạo.
Do vậy, hình tượng Bơ-men đã tạo được ấn tượng sâu sắc. Bơ-men đã đánh bại được tử thần, trả lại màu xanh cho chiếc lá úa, trả lại màu hồng cho đôi má Giôn-xi, trả lại niềm tin và nghị lực cho tâm hồn yếu ớt. Ước mơ một đời vẫn chưa tiến hành, thai nghén và tiến hành tác phẩm bằng cả con tim yêu thương mà phẫn nộ, phẫn nộ với sự mềm yếu của bất kì ai.
Nhưng điều quan trọng hơn cả là cụ Bơ-men – con người tốt – có lòng yêu thương đối với Giôn-xi trong điều kiện hoàn toàn có thể của tớ. Thương yêu chân thành đến độ hi sinh, sáng tác trong giá lạnh để bảo vệ niềm mong muốn cho Giôn-xi. Đó là lòng yêu tình nhân nghệ thuật của cụ Bơ-men.
Bài văn phân tích cụ Bơ-men trong tác phẩm “Chiếc lá sau cuối” của O Hen-ri số 4
Trích đoạn Chiếc lá cuối cùng trong tác phẩm cùng tên của nhà văn O Hen-ry là trích đoạn hay và giàu ý nghĩa. Đoạn trích là bài ca ca ngợi sức mạnh của tình yêu thương đối với mỗi con người. Và tình yêu thương, sự hi sinh cho người khác được thể hiện rõ nét qua nhân vật cụ Bơ-men.
Cụ Bơ-men được giới thiệu là một họa sĩ nghèo, đã ngoài sáu mươi tuổi. Cụ ở cùng tòa nhà với hai họa sĩ trẻ là Xiu và Giôn-xi. Đã theo nghiệp vẽ hơn bốn mươi năm nay cả đời cụ chỉ có một mơ ước sẽ vẽ được một bức tranh kiệt tác để lại cho hậu thế. Nhưng năm tháng trôi qua, nguyện ước của cụ vẫn vẫn chưa thể thực hiện được. Cụ hiện làm mẫu vẽ cho các họa sĩ trẻ nhằm kiếm sống qua ngày.
Đằng sau vẻ ngoài xù xì, gai góc ấy, ta thấy trong cụ là con người có tấm lòng nhân hậu và yêu thương người khác sâu sắc. Ngày biết tin Giôn-xi có những ý nghĩ điên rồ, rằng sẽ chết khi chiếc là cuối cùng rơi xuống, cụ đã vô cùng đau đơn, thương xót và cũng giận dữ khi Giôn-xi có những suy nghĩ yếu đuối đến như vậy.
Có lẽ trong lúc Xiu buồn rầu, chán nản kéo chiếc rèm lên sau một đêm mưa gió bão bùng để cho Giôn-xi xem, thì từ căn phòng bên dưới cũng là lúc cụ Bơ-men mở tung cánh cửa sổ và đi đến một quyết định cao thượng. Hi sinh bản thân mình cho người khác đâu phải là chuyện đơn giản, dễ dàng, người ta có thể chia nhau cái bánh, miếng cơm, manh áo, nhưng mấy ai dễ chia nhau sinh mạng. Ấy vậy mà cụ Bơ-men đã dũng cảm làm được điều ấy.
Trong đêm mưa gió điên cuồng, cái lạnh thấu vào da, cụ Bơ-men đã mang những dụng cụ cần thiết, một chiếc thang, chiếc đèn bão, màu mực để vẽ nên kiệt tác của mình. Kiệt tác đó được vẽ nên từ tình yêu thương, sự hi sinh cao cả bởi vậy đã đem lại sự sống cho Giôn-xi.
Sáng hôm sau, khi nhìn thấy chiếc lá cuối cùng vẫn dũng cảm treo bám trên cây, Giôn-xi đã không khỏi ngỡ ngàng và nhận ra những suy nghĩ sai lầm của bản thân: “Muốn chết cũng là một cái tội”. Cô đã vực lại niềm tin và sự sống trong mình. Nếu không có chiếc lá đó, hẳn Giôn-xi đã bỏ phí cả cuộc đời đang rộng mở phía trước.
Còn đối với cụ Bơ-men sau đêm chiến đấu với cái lạnh lẽo, giá rét, cụ đã mắc căn bệnh sưng phổi và mất không lâu sau đó. Nhưng có lẽ cái chết của cụ cũng không làm cụ vướng bận điều gì, bởi cụ đã thực hiện được nguyện ước của đời mình đó là vẽ nên một bức tranh kiệt tác. Chiếc lá cuối cùng được coi là một kiệt tác bởi trước hết ở độ chân thực của nó.
Chiếc lá giống thật đến nỗi, con mắt họa sĩ của hai cô gái cũng không hề nhận ra đó chỉ là sản phẩm của màu vẽ. Không chỉ vậy, chiếc lá được vẽ nên bằng tình yêu thương sự hi sinh cao cả của cụ Bơ-men. Và cuối cùng nó là một kiệt tác bởi đã đem lại hi vọng sống cho một con người. Giúp Giôn-xi thoát khỏi lưỡi hái tử thần.
Bởi tất cả những lí do trên nên Chiếc lá cuối cùng đã trở thành kiệt tác nghệ thuật trong cuộc đời cụ Bơ-men. Đồng thời bức tranh ấy cũng gửi gắm đến bạn đọc thông điệp về giá trị của tác phẩm nghệ thuật: một tác phẩm nghệ thuật chân chính là sinh ra để phục vụ con người, để khiến con người trở nên tốt đẹp hơn.
Nhân vật cụ Bơ-men không được tác giả tập trung phác họa quá nhiều, mà chỉ là những nét phác thảo hết sức ngắn ngủi. Nhưng cũng chỉ cần có vậy thôi, ta cũng cảm nhận được giá trị nhân văn và những thông điệp ý nghĩa tác giả muốn gửi gắm qua nhân vật này. Sống là để yêu thương, sẵn sàng san sẻ và hi sinh, đó là lẽ sống cao đẹp mà bất cứ ai cũng cần hướng đến.
Bài văn phân tích cụ Bơ-men trong tác phẩm “Chiếc lá sau cuối” của O Hen-ri số 5
Chiếc lá sau cuối là “kiệt tác duy nhất của nhân vật Bơ-men, nhân vật chính trong truyện ngắn cùng tên của O Hen-ri, nhà văn Mỹ xuất sắc đầu thế kỉ XX. Với kiệt tác đó, nhân vật Bơ-men đã bộc lộ rõ lòng nhân đạo cao quý và đã gây xúc động sâu sắc cho toàn bộ thế hệ này đến thế hệ khác suốt gần 100 năm qua và đã góp phần làm cho tên tuổi của O.Hen-ri trở thành bất tử.
Là nhân vật chính nhưng bác Bơ-men chỉ xuất hiện có một lần ở giữa truyện sót lại là được nhắc tới qua lời dẫn truyện của tác giả giới thiệu về bác và lời của Xiu-đi nói với Giôn-xi về cái chết và tác phẩm kiệt xuất của bác. Tuy xuất hiện không nhiều, nhưng phẩm chất, tính nhữngh của Bơ-men rất nổi trội, rất sâu sắc. Trước tiên, người đọc thấy Bơ-men là một nghệ sĩ nghèo, không thành đạt nhưng sống rất lương thiện và luôn khát vọng sáng tạo một kiệt tác.
Đã ngoài sáu mươi, nhưng bác Bơ-men vẫn sống cô độc trong một gian buồng tối om om ở tầng dưới. Chỉ có những người nghèo mới phải ở trong một gian buồng như thế. Trong một gian buồng như thế thì vẽ thế nào được tranh, cho nên trên giá vẽ ở góc buồng của bác vẫn là một tấm vải trống trơn vẫn chưa xuất hiện một nét vẽ. Không có tranh để bán, mỗi ngày bác tìm được chút ít bằng phương pháp ngồi làm mẫu cho những nghệ sĩ trẻ không đủ tiền thuê người làm mẫu chuyên nghiệp.
Là họa sỹ nhưng Bơ-men lại sống bằng việc làm người mẫu không chuyên cho những họa sỹ nghèo. Cuộc sống của bác thật khổ và thật bấp bênh tuy vậy bác vẫn sống trong trắng, không phiền hà đến ai, không để cho sự nghèo khổ làm sa sút phẩm chất, làm mềm yếu tinh thần. Chả thế mà bác hay chế nhạo cay độc sự mềm yếu của bất kì ai.
Hóa ra bác không chấp thuận sự yếu ớt về tinh thần, về ý chí của bản thân và của những người xung quanh. Phẩm chất đó thật cao đẹp, thật trong sáng. Chính vì có phẩm chất đó, nên tuy sống trong nghèo khổ, suốt đời chỉ uống loại rượu nặng rẻ tiền. Nhưng ước mơ sáng tạo lúc nào cũng cháy bỏng trong lòng bác.
Bác luôn có ý định rõ một bức tranh kiệt tác và tuy uống rượu nặng quá độ mà vẫn nói về cái tác phẩm kiệt xuất sắp tới đây của tớ, ước mơ khát vọng của bác thật đẹp. Thật chân chính. Đã ngoài sáu mươi, nhưng bác vẫn không tiến hành được ước mơ, khát vọng đó, có lẽ chủ yếu do bác quá nghèo, chứ không phải do bác thiếu tài năng. Người đọc thương bác, yêu quý bác không coi thường bác chính vì lẽ đó.
Song cái đáng quý nhất ở bác Bơ-men là tuy sống trong nghèo khổ, nhưng bác luôn quyên tâm đến mọi người, muốn đem lại điều tốt lành cho người khác. Trong cuộc sống, bác không muốn mọi người xung quanh mềm yếu bác chế nhạo họ là mong họ đẹp đẽ, cứng rắn lên. Đối với những người nghèo, thực sự yếu ớt, bác luôn quyên tâm chăm sóc. Người đọc thật cảm động và quý mến bác khi biết bác tự coi mình có nhiệm vụ gác cửa bảo vệ hai nữ nghệ sĩ nghèo nhỏ xíu, thiếu máu ở phòng vẽ tầng trên.
Khi Xiu, một trong hai nữ nghệ sĩ do báo tin cho bác biết Giôn-xi, cô nghệ sĩ yếu ớt và mảnh mai như một chiếc lá bị bệnh sưng phổi và ý nghĩ vô vọng kì quặc của cô, bác Bơ men cặp mắt đỏ ngầu, nước mắt chảy ròng ròng. Đó là những giọt nước mãi xót xa thương cảm Bác đã coi hai cô nàng nghèo như con mình.
Khi biết Giôn -xi nghĩ rằng mình sẽ chết khi cây thường xuân rụng hết lá, bao hét lên, quát to nhạo báng ý nghĩ ngớ ngẩn của cô. Bác hét, bác quát nhưng, lòng đầy thương cảm vì sau lời quát là lời dịu dàng xót xa: Chà, tội nghiệp cô nàng Giôn – xi. Thật cảm động khi nghe bác nói với Xiu khi theo cô lên phòng vẽ cô Giôn-xi đang nằm: Trời, đây không phải chỗ cho một con người tốt như cô Giôn xi nằm.
Một ngày kia tôi sẽ vẽ một tác phẩm kiệt xuất cả toàn bộ chúng ta sẽ đi khỏi nơi này. Trời, nhất định thế, vẫn là ước mơ đẹp đẽ nhưng ước mơ đó gắn liền với cùng 1 lòng yêu thương sâu sắc. Bác muốn sáng tạo, muốn có kiệt tác để giúp đỡ mọi người, để đem lại cuộc sống đẹp đẽ cho mọi người. Động cơ sáng tạo của bác thật cao quý.
Có lẽ do động cơ sáng tạo cao đẹp đó, nên khi nhìn qua cửa sổ, thấy cây thường xuân rụng lá dần dưới cơn mưa lanh lẽo pha tuyết đang đổ xuống, bác đâu nghĩ đến việc dùng bút vẽ để cứu Giôn-xi… và chiếc lá sau cuối vẫn không rụng, vẫn đơn độc bám lấy cái cuống của nó trên tường, mặc cho mưa gió vùi dập qua mấy đêm kinh khủng. Chiếc lá sau cuối không rụng đó đã đem lại niềm tin vào sự sống cho Giôn-xi, đã cứu sống Giôn-xi.
Nhưng chiếc lá sau cuối đó đã giết bác Bơ-men, chính vì chiếc lá rất giống những chiếc lá khác nhưng chẳng lúc nào nó rung rinh hoặc lay động khi gió thổi tới là do bác Bơ-men vẽ trong cái đêm rét khủng khiếp, khi chiếc lá sau cuối đã rụng xuống. Do dầm mình trong mưa tuyết giá lạnh, bác Bơ-men đã nhiễm bệnh sưng phổi và đã qua đời sau đó hai ngày. Bác đã chết sau khi sáng tạo tác phẩm duy nhất là chiếc lá sau cuối để cứu sống một cô nàng bị bệnh hiểm nghèo.
Chắc chắn khi dầm mình trong mưa tuyết để vẽ chiếc lá, bác không phải không cảm thấy giá buốt, không phải không cảm thấy nguy hiểm cho tính mạng mình. Nhưng lòng thương yêu Giôn-xi, ý muốn dùng cây bút và bảng màu để cứu sống cô đã thúc đẩy bác vượt lên trên giá buốt, hiểm nguy để vẽ chiếc lá sau cuối. Đó là một kiệt tác thực sự vì nó chứa đựng toàn bộ tâm hồn, tài năng của một nghệ sĩ chân chính, vì nó được tạo thành bằng cả cuộc đời của một con người và vì nó đem lại cuộc sống cho những người nghèo khổ và lương thiện.
Bác Bơ-men đã chết, nhưng tác phẩm kiệt xuất của bác vẫn sống mãi với hai cô nàng nghèo, vẫn sống mãi trong lòng những thế hệ bạn đọc. Bởi vì tác phẩm đó đã thể hiện toàn bộ phẩm chất cao đẹp của bác: nghèo nhưng cực kì nhân hậu, thất bại nhưng vẫn ước mơ, sẵn sàng xả thân vì người khác.

Bài văn phân tích cụ Bơ-men trong tác phẩm “Chiếc lá sau cuối” của O Hen-ri số 6
O Hen-ri là một nhà văn Mĩ chuyên viết truyện ngắn. Những tác phẩm của ông thường nhẹ nhàng nhưng toát lên tinh thần nhân đạo cao quý, tình yêu thương người nghèo khổ, rất cảm động. “Chiếc lá sau cuối” là truyện ngắn góp phần làm cho tên tuổi của O Hen- ri trở thành bất hủ.
Trong mẩu chuyện ấy, ta thấy thấm đượm tình cảm cao đẹp giữa những người họa sỹ nghèo khổ, và đặc biệt để lại nhiều dư cảm sâu sắc nhất là nhân vật cụ Bơ-men.Cụ sống cùng Xiu và Giôn-xi trong một căn hộ thuê ở gần công viên Oa- sinh- tơn. Bốn chục năm nay cụ mơ ước vẽ một kiệt tác nhưng vẫn chưa tiến hành được, cụ thường ngồi làm mẫu vẽ cho những họa sỹ khác để kiếm tiền.
Cuộc sống tuy nghèo nhưng cụ luôn giữ phẩm chất trong trắng, hoàn cảnh không thể làm cụ yếu mềm tinh thần. Chả thế mà cụ “ hay chế nhạo cay độc sự mềm yếu của bất kì ai”. Cụ Bơ-men luôn sống giàu tình thương, quyên tâm tới mọi người. Cụ muốn những người xung quanh mình phải mạnh mẽ và cứng rắn. Chúng ta cảm động khi biết cụ tự coi mình có nhiệm vụ bảo vệ Xiu và Giôn-xi ở phòng vẽ tầng trên.
Mùa đông năm ấy, Giôn-xi bị bệnh sưng phổi, cô vô vọng, đếm từng chiếc lá sót lại trên cây thường xuân bám vào bức tường gạch đối diện cửa sổ, chờ khi nào chiếc lá sau cuối rụng thì cô cũng lìa đời. Biết được ý nghĩ kì quặc ấy , mắt cụ Bơ- men đỏ ngầu , “ nước mắt chảy ròng ròng”. Đó là những giọt nước mắt xót xa, đầy thương cảm. Cụ “hét lên”, “quát to” rồi sau đó là lời dịu dàng, xót xa: “Chà tội nghiệp cô nàng Giôn-xi”.
Thật cảm động khi nghe những lời mà cụ nói với Xiu khi theo cô lên phòng vẽ mà Giôn- xi đang nằm: “ Trời đây không phải là chỗ cho một con người tốt như cô Giôn- xi nằm. Một ngày kia, tôi sẽ vẽ một tác phẩm kiệt xuất và toàn bộ chúng ta sẽ đi khỏi nơi này.” Vẫn là ước mơ đó nhưng nó đã gắn liền với lòng yêu thương sâu sắc. Cụ muốn sáng tạo để đem lại cuộc sống đẹp đẽ cho mọi người.
Cụ Bơ-men con người có đức hi sinh cao quý. Nhà văn đã triệu tập mô tả khoảnh khắc căng thẳng của cụ và Xiu: “ Họ sợ sệt ngó ra ngoài cử sổ, nhìn cây thường xuân. Rồi họ nhìn nhau một lát, chẳng nói năng gì.” có vẻ như trong phút giây im lặng ấy, họ đã đoán được điều gì sẽ xảy đến. Là một nhân vật chính nhưng cụ chỉ xuất hiện ở phần đầu và giữa truyện, những hành động tiếp theo của cụ chỉ được hiện lên qua lời kể của Xiu.
Sau khi ngồi làm mẫu cho Xiu vẽ, hình ảnh cụ Bơ-men bỗng biến mất. Người đọc dần quên béng sự hiện diện của cụ mà thay vào đó để ý tới diễn biến căng thẳng xoay quanh Xiu, Giôn- xi và chiếc lá sau cuối. Không ai đoán biết được cụ đã làm gì trong vòng thời gian ấy . Phải đến cuối truyện, Giôn-xi và người đọc mới làm rõ hành động cao quý của cụ. Chắc chắn khi đứng dưới mưa tuyết để vẽ chiếc lá lên bờ tường gạch, con người già nua ấy giá buốt lắm, hơn ai hết cụ biết rõ tính mạng mình đang gặp nguy hiểm.
Nhưng lòng thương yêu Giôn-xi, ý muốn dùng cây bút và bảng màu để đem lại niềm tin, nghị lực sống cho cô dã giúp cụ vượt lên toàn bộ. Chiếc lá mà cụ vẽ sống động và rất thật: “ở gần cuống lá còn giữ màu xanh sẫm, nhưng với rìa lá hình răng cưa đã nhuốm màu vàng úa”, khiến cho hai cô họa sỹ của chúng ta cũng không hề nghi ngờ. Và chiếc lá ấy đã gieo vào lòng cô nàng trẻ tội nghiệp hơi ấm của niềm tin, nghị lực, kéo cô từ vực thẳm của bệnh tật vươn lên sống tiếp.
Có thể nói chiếc lá là cả tấm lòng của cụ Bơ-men, là minh chứng cho sự hi sinh đến quên mình để đem lại sự sống cho người khác. Cụ đã làm được một điều mà bốn mươi năm qua hằng ao ước: vẽ một kiệt tác. Và có lẽ khi một con người nằm xuống cũng là lúc một tâm hồn được đánh thức, sẽ tiếp tục góp sức cho đời những sáng tác nghệ thuật.
Câu chuyện kết thúc bằng lời kể của Xiu về cái đêm mà cụ Bơ-men vẽ chiếc lá mà không để cho Giôn- xi có phản ứng gì thêm như để lại dư âm trong lòng người đọc. Nhà văn O Hen-ri đã rất khéo léo khi xây dựng nghệ thuật đảo ngược tình huống hai lần. Lần đảo ngược thứ nhất, Giôn-xi như đang tiến dần đến cái chết bỗng khỏe lại, yêu đời và thắng lợi bệnh tật.
Lần đảo ngược thứ hai liên tiếp sau đó, cụ Bơ-men từ một người khỏe mạnh đến cuối truyện mắc bệnh và qua đời. Một con người đi từ sự sống đến cái chết, một con người người từ cái chết tìm lại sự sống. Tất cả đã được nhà văn kể lại thật tự nhiên và cảm động.
Truyện ngắn làm cho chúng ta không khỏi rung cảm trước tình yêu thương cao quý giữa những người nghèo khổ. Câu chuyện còn giàu tính nhân văn , chứa đựng bức thông điệp trong cuộc sống: dù gặp phải hoàn cảnh khó khăn nhất cũng đừng lúc nào bi quan, vô vọng, hãy mạnh mẽ tin tưởng vào trong ngày mai tươi sáng, ta sẽ vượt qua toàn bộ.

Bài văn phân tích cụ Bơ-men trong tác phẩm “Chiếc lá sau cuối” của O Hen-ri số 7
Tác phẩm Chiếc lá sau cuối là một bài ca đẹp đẽ về tình người và ngời sáng một lối sống và một lối sáng tác của những nghệ sĩ chân chính. Chính tình thương đã mang lại nghị lực cho cuộc sống của những con người đau khổ vô vọng, cũng chính tình thương đã thổi một sức sống mãnh liệt cho nghệ thuật, làm nên những tác phẩm bất hủ.
Cũng như hai họa sỹ trẻ Giôn-xi và Xiu, cụ Bơ-men là một nghệ sĩ nghèo từ tỉnh lẻ tới. Cả cuộc đời sáu mươi năm của cụ đều đầy những khó khăn trắc trở, có tài năng năng chắc chắn cụ luôn ấp ủ một bức tranh mơ ước, nhưng sau cuối cụ cũng chỉ là chiếc bóng mờ nhạt của nghệ thuật. Bởi vì cụ quá nghèo không đủ tiền cho một tác phẩm nghệ thuật chân chính.
Thu nhập của cụ là ngồi làm mẫu cho những họa sỹ tập sự, những người “không đủ tiền thuê một người mẫu chuyên nghiệp”, để được một số tiền nhỏ nhoi và về “bôi bác một bức cho ngành buôn bán hay quảng cáo”, theo lời cụ nói mà chua xót, vô vọng làm sao. Đó là những công việc chán ngán, tẻ nhạt, không tương thích với hoài bão của cuộc đời cụ.
Tâm trí buồn phiền, cảnh sống cùng quẫn khiến cụ uống rượu quá độ, cay độc và dữ tợn. Nhưng cụ không phải là người xấu, cụ biết thông cảm, sẻ chia buồn vui với những người nghệ sĩ trẻ, trong đó có Giôn-xi và Xiu. Có lẽ vì quá thương cảm những cô nàng nhỏ nghèo khổ, mà cụ dường như có phần độc đoán khi “tự coi mình là con chó xồm lớn chuyên gác cửa bảo vệ” cho hai cô nàng đáng yêu của cụ.
Khi Xiu kể cho cụ nghe về ý nghĩ kì quặc của Giôn-xi: khi chiếc lá sau cuối lìa cành thì cô cũng lìa đời; Giôn-xi yếu ớt mong manh như một chiếc lá, tâm lí đầy vô vọng, thì cụ tức giận nhạo báng: “Sao trên đời này lại có những người ngớ ngẩn muốn chết chỉ vì một cây leo chết tiệt nào đó rụng lá ư?”. Cụ cho những lời nói, hành động của Giôn-xi là ngốc nghếch. Cụ trách rưới Xiu sao lại để cho những chuyện vớ vẩn đó chui vào đầu óc con bé đáng yêu. Sự bực bội quát mắng ấy xuất phát từ một tình thương vô bờ bến của người cha đối với những đứa con dại khờ.
Vì thấu hiểu tâm trạng của Giôn-xi mà cụ Bơ-men đã thốt lên một câu đầy thương cảm “Tội nghiệp cô nàng Giôn-xi”, Giôn-xi đã cho cụ là lắm điều, lắm lời nhưng cụ đã quên mình để tiến hành một tác phẩm. Và theo quy luật nghiệt ngã của thiên nhiên, khi những chiếc lá trên cành rụng hết, vẫn còn đó đấy lại một chiếc lá kì diệu đã cứu sống cô nàng Giôn-xi.
Giữa bão tuyết dày đặc, mưa gió đêm đông, tê tái, chiếc lá thường xuân nhỏ xíu đang dũng cảm duy trì nhựa sống dồi dào, thì không lẽ con người lại chịu thua bệnh tật, Giôn-xi tìm lại thú vui vào cuộc sống và bình phục dần. Đó cũng là lúc cô biết chiếc lá trên cành là do cụ Bơ-men vẽ. Nhưng người họa sỹ già nhân hậu đó đã chết trong đêm mưa bão khi cụ liều mình trèo lên tường để đem lại cuộc sống cho cô. Có phải chăng Giôn-xi đã được cụ Bơ-men nhường cho hơi thở để được sống, tiếp tục tiến hành ước mơ của tớ.
Tình yêu con người, tình yêu nghệ thuật cùng với tài năng của người nghệ sĩ chân chính đã khiến cụ cứu được cô nàng. Cụ đã hòa vào mực vẽ, vào ngọn bút những giọt nước mắt yêu thương của tớ khiến chiếc lá sinh động rất thực. Con người già cả ấy không nề hà đêm tối om mùng, lạnh lẽo, hoang vắng, mặc kệ gió tuyết cắt da, cắt thịt, để đem tài năng nghệ thuật cứu người. “Cụ múa cây bút vẽ đã hơn bốn mươi năm mà không với được gấu áo nữ thần của tớ”.
Cụ vẽ vì sự sống của cô nàng chứ không phải vì danh tiếng cá nhân. Bức tranh được vẽ với toàn bộ tấm lòng cao thượng và nhân hậu, đã có tác dụng màu nhiệm không chỉ là là cuộc sống của một con người mà còn đem lại niềm mơ ước sáng tạo cho một nghệ sĩ trẻ. Để đổi lấy một tác phẩm đầy tính nhân bản, người nghệ sĩ già không đắn đo trả bằng sinh mệnh của tớ. Sự hi sinh của cụ làm cho nghệ thuật có ý nghĩa sâu sắc cao quý hơn, gần hơn với nỗi buồn thú vui của con người.
Hình ảnh của cụ Bơ-men có sức chinh phục lòng người, nó hướng con người tới giá trị đích thực của cuộc sống: “Tất cả mọi thứ rồi sẽ trôi qua nhưng lòng nhân ái thì còn mãi”. Cụ Bơ-men là hiện thân của đức hi sinh cao quý, tấm lòng, tình cảm trong sáng, thủy chung của con người.
Nhân vật Bơ-men dường như chỉ thoáng qua, nhưng đây mới đúng là trung tâm khi ta suy nghĩ về giá trị nhân sinh của Chiếc lá sau cuối. Tác phẩm giản dị, nhẹ nhàng như cuộc sống của ông già họa sỹ Bơ-men, nhưng mang một thông điệp viết trên chiếc lá thường xuân: con người hãy yêu thương nhau hơn và chỉ có một mục đích chân chính phục vụ con người là lẽ sống, lẽ tồn tại duy nhất của nghệ thuật và bản thân mỗi con người.
Bài văn phân tích cụ Bơ-men trong tác phẩm “Chiếc lá sau cuối” của O Hen-ri số 8
Nhà văn Khái Hưng khi nhìn những chiếc lá rụng rơi đã thầm nhủ: “Mỗi một chiếc lá rụng có một linh hồn riêng, một tâm tình riêng”. Và hẳn khi còn trên cành nó cũng đều có một linh hồn, một tâm tình riêng như thế. Ta bắt gặp chiếc lá với linh hồn rất riêng – một kiệt tác của tình yêu thương vô bờ trong truyện ngắn “Chiếc lá sau cuối” của O Hen-ri.
Kiệt tác mà người họa sỹ già Bơ-men tặng cho cô nàng trẻ Giôn-xi khi cô đã ngớ ngẩn xây dựng cho mình niềm tin xấu số: Cô sẽ chết khi chiếc lá thường xuân sau cuối rụng xuống. Câu chuyện về chiếc lá thường xuân sau cuối không rụng ấy cũng là mẩu chuyện cực kì cảm động về cụ Bơ-men – một họa sỹ già chân chính với trái tim giàu tình yêu thương và lòng nhân hậu.
Trong khu phố nhỏ ở phía Tây công viên Oa-sinh-tơn ta bắt gặp những họa sỹ nghèo, đó là hai cô nàng trẻ Xiu và Giôn-xi, cụ Bơ-men – một họa sỹ già. Cũng như hai cô nàng trẻ, cụ Bơ-men sống nghèo khổ, phải làm việc cật lực để kiếm tiền và luôn nuôi mơ ước: về một bức tranh kiệt tác. Điều quý nhất ở cụ Bơ- men là lòng yêu thương con người. Dù chẳng họ hàng gì với hai cô nàng trẻ, cụ vẫn tự nguyện làm một “con chó xồm” gác cửa cho hai họa sỹ trẻ và chăm sóc, bảo vệ hai cô nàng như một người cha.
Rồi Giôn-xi bị gã “bợm già có hơi thở dồn dập và nắm tay đỏ lòm” tên là “viêm phổi” ghé thăm. Bệnh tình mỗi lúc một nặng và trong đầu Giôn-xi xuất hiện một ý nghĩ điên rồ: Khi nào chiếc lá thường xuân sau cuối rụng xuống cũng là lúc cô sẽ ra đi. Câu chuyện đáng thương của cô họa sỹ yếu ớt và mỏng manh như chiếc lá giữa phong ba đã được cụ Bơ-men tiếp nhận bằng sự “khinh bỉ và nhạo báng” vì cụ không chịu nổi sự mềm yếu.
Với cụ Bơ-men, cái ý nghĩ của Giôn-xi là thể hiện của yếu ớt, sự bất lực, sự buông xuôi và cụ không thể nào chấp thuận nó. Vì sao ư? Hãy nhìn vào cuộc đời của người họa sỹ già sáu mươi tuổi đời, bốn mươi tuổi nghề ấy ta sẽ thấy, dù nghèo túng, khổ cực, dù vẫn chưa lúc nào “với tới được gấu áo vị nữ thần của tớ” cụ vẫn không ngừng nuôi mong muốn về cái “tác phẩm kiệt xuất sắp tới đây”.
Bởi vậy, sự mềm yếu, sự vô vọng không lúc nào có trong ý nghĩ của cụ. Tuy nhiên dù “khinh bỉ và nhạo báng” nhưng cụ không quay lưng với hai cô nàng trẻ, khi đứng trước Giôn- xi “yếu ớt và mảnh mai như một chiếc lá đang vật lộn với thần chết, cặp mắt cụ Bơ-men đỏ ngầu, nước mắt chảy ròng ròng”. Đó là những giọt nước mắt xót xa, thương cảm bởi từ sâu thẳm tâm hồn người nghệ sĩ già ấy, hai cô nàng đáng thương được cụ yêu quý như con mình.
Nhìn căn phòng chật hẹp nơi Giôn-xi đang nằm trong cụ, cái khát khao về được một bức tranh – một kiệt tác lại thôi thúc: “Trời, đây không phải chỗ cho một con người tốt như cô Giôn-xi nằm. Một ngày kia, tôi sẽ vẽ một tác phẩm kiệt xuất và toàn bộ chúng ta sẽ đi khỏi nơi này. Trời, nhất định thế”. Lại vẫn ước mơ đẫm chất nhân văn, ước mơ đẹp đẽ gắn liền với lòng yêu thương con người sâu sắc, nghệ thuật đích thực theo quan niệm của cụ là phải hướng tới cuộc sống.
Và có lẽ, do quan niệm nghệ thuật phải đem lại những giá trị đích thực cho cuộc sống mà cụ đã tạo ra một kiệt tác trong khoảnh khắc chiếc lá thường xuân sau cuối rụng xuống. Cây bút vẽ bao năm nằm buồn bã được đánh thức để cùng với cụ làm cho “chiếc lá sau cuối” không rụng.
Nó đơn độc và “dũng cảm treo bám vào cành nhữngh mặt đất chừng hai mươi bộ”. Chiếc lá can trường ấy đã giúp Giôn-xi tỉnh ngộ, cô chợt hiểu ra “muốn chết là một tội”, nó đem lại cho cô niềm tin, đem lại cho cô khát vọng sống. Và chính niềm tin, khát vọng đó đã cùng Giôn-xi thắng lợi gã “bợm già” viêm phổi có những lúc tưởng chừng đã nuốt chửng cô.
Nhưng mẩu chuyện không dừng lại ở đó. Sau cái đêm mưa gió ấy hai ngày cụ Bơ-men đã ra đi, cụ bị viêm phổi vì đã dầm mình trong mưa tuyết để vẽ chiếc lá thường xuân trên tường, để giữ cho mầm mong muốn nhỏ nhoi trong lòng cô họa sỹ trong cơn bạo bệnh không bị vùi lấp, dập tắt.
Cụ đã trả lại sự sống cho chiếc lá, trả lại màu hồng trên đôi má của người thiêu nữ, trả lại niềm tin và nghị lực của con người, trả lại khát vọng vươn lên mãnh liệt cho cuộc đời. Cụ đã đổi toàn bộ những điều ấy bằng sinh mạng, bằng cuộc sống của tớ. Cụ Bơ-men đã chết nhưng kiệt tác của cụ sống mãi trong lòng người. Nghệ thuật chân chính có sức mạnh diệu kì của sinh thành và tái tạo. Ta thấm thía hơn giá trị thiêng liêng và cao quý của nghệ thuật chân chính, của người nghệ sĩ chân chính, của O Hen-ri.
Hình ảnh cụ Bơ-men trong truyện ngắn được phác họa không nhiều nhưng đủ để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc về tình yêu thương con người và xả thân vì con người, vì lòng yêu thương đó. Chiếc lá sau cuối là kiệt tác của cụ Bơ-men cũng là kiệt tác của niềm tin, của sự hồi sinh mãnh liệt. Kiệt tác ấy như một minh chứng cho sức mạnh của “nghệ thuật vị nhân sinh”.
Bài văn phân tích cụ Bơ-men trong tác phẩm “Chiếc lá sau cuối” của O Hen-ri số 9
Tác phẩm “Chiếc lá sau cuối” là một truyện ngắn cực kì cảm động của một nhà văn nổi tiếng nước Mỹ, ông O hen ri. Truyện ngắn tôn vinh lòng nhân ái, tấm lòng cao quý của những người họa sỹ nghèo cô đơn, nhưng có tình yêu con người cực kì bao la, hoàn toàn có thể mang lại niềm tin cho con người vào cuộc sống.
Chính cụ già Bơ men là một nhân vật như vậy, ông có khả năng truyền thụ niềm tin tình yêu cuộc sống cho cô nàng nhỏ Giôn-xi khốn khổ, bệnh tật và nghèo khó. Truyện ngắn “Chiếc lá sau cuối” viết về hai người họa sỹ trẻ Giôn xi và Xiu họ cùng có chung một ước mơ đúng là tình yêu với nghệ thuật. Họ thuê chung một căn hộ ở tầng thượng của một ngôi nhà cũ kỹ làm xưởng vẽ.
Trong cùng ngôi nhà có một ông họa sỹ già, đó đúng là cụ Bơ men ông cụ luôn mơ ước mình sẽ sáng tác được một bức tranh để đời. Một tác phẩm nghệ thuật thật sự, nhưng năm nay ông cụ hơn sáu mươi tuổi đó vẫn vẫn chưa làm được điều đó. Cuộc sống mưu sinh khiến ông phải làm thêm rất nhiều nghề kiếm sống trong đó có việc ngồi làm mẫu vẽ cho những sinh viên trường mỹ thuật khiến mấy đô la mỗi giờ.
Mùa đông năm đó, mưa lạnh tuyết rơi suốt, Giôn- xi mắc bệnh viêm phổi, nhưng không tồn tại tiền để chữa trị triệt để nên bệnh tình cứ tái phát mãi. Thời đó, căn bệnh này khiến nhiều người thiệt mạng, cho nên Giôn-xi đã buông bỏ hy vọng sống của tớ.
Cô thường nghĩ tới cái chết, mỗi ngày Giôn- xi ngồi trên giường bệnh và ngồi đếm những chiếc lá thường xuyên qua cửa sổ. Cô thường nói với Xiu người bạn cùng phòng của tớ rằng, khi nào chiếc lá thường xuân sau cuối trên cây rơi xuống thì cũng là lúc mà cô sẽ chết.
có vẻ như Giôn- xi đã quá vô vọng cô không tồn tại niềm tin nào để hoàn toàn có thể dựa vào bám víu, lúc nào cô nàng trẻ ấy cũng đều có cảm giác cái chết đang tới rất gần mình. Các bác sĩ cũng nói rằng bệnh của Giôn-xi hết thuốc chữa, nếu như người bệnh không muốn điều trị, không thiết tha cuộc sống. Nhân vật Xiu là người khá tốt bụng cô rất thương Giôn xi và thường xuyên khuyên nhủ bạn mình, nhưng mọi lời nói của Xiu đều không kết quả, Giôn- xi vẫn sống trong vô vọng và chờ đón cái chết sẽ tới với mình.
Xiu khá giận Giôn- xi về sự việc cô thường xuyên đếm những chiếc lá và chờ đón ngày ra đi của tớ. Có lần Xiu đã tâm sự chuyện này với ông cụ Bơ men người đàn ông cùng đam mê hội họa sống chung một nhà với mình. Ông lão nghèo, sống cô độc một mình trong một phòng gần phòng của Giôn-xi và Xiu ở. Ông cụ luôn muốn sáng tác một tác phẩm tuyệt vời nhưng suốt hơn bốn mươi năm cầm cọ vẽ ông vẫn vẫn chưa sáng tác được một tác phẩm nghệ thuật nào đúng nghĩa.
Người nghệ sĩ khốn khổ ấy vẫn chưa lúc nào hết mơ ước về một bức tranh tuyệt tác, một bức tranh để đời mang lại tên tuổi cho ông trong cả khi ông đã ra đi từ bỏ cuộc sống này. Bình thường ông Bơ men ít khi tươi tỉnh, với người khác cuộc sống có quá nhiều điều cần phải suy nghĩ, khiến cho ông thường xuyên cau có, ít tươi cười niềm nở. Nhưng khi nghe Xiu tâm sự về sự việc của Giôn-xi lòng ông lão lại trỗi dậy một tình yêu thương vô hạn.
Những chiếc lá thường xuân đúng là niềm tin về sự sống cho cô nàng nhỏ Giôn- xi khốn khổ, Chiếc lá sau cuối của cây thường xuân bám trên bức tường gạch không lúc nào rụng sẽ làm niềm tin của Giôn-xi sống lại. Sau một đêm mưa gió, bão tuyết tơi tả vùi dập phũ phàng những chiếc lá trên cây. Giôn-xi nghĩ chắc chắn chiếc lá sau cuối cũng đã rơi xuống. Nhưng khi thức dậy Giôn-xi cực kì ngạc nhiên chiếc lá sau cuối vẫn còn đó đấy đó.
Cô cảm thấy thú vui quay về, cô bắt đầu hy vọng nhiều hơn thế, hy vọng mình sẽ không chết. Mình sẽ như chiếc lá kia kiên trì sống tiếp với cuộc đời nhiều sóng gió. Niềm tin đã được nhen nhóm thắp lên trong tâm hồn cô nàng trẻ tội nghiệp của chúng ta.
Chính kiệt tác Chiếc lá sau cuối của cụ Bơ men đã cứu sống Giôn- xi tội nghiệp. Cuối cùng thì Giôn-xi cũng khỏi bệnh mùa đông, rồi tới mùa xuân căn bệnh viêm phổi của Giôn-xi càng ngày càng thuyên giảm. Cho tới một ngày cô tới gần cửa sổ nhìn thật kỹ chiếc lá thường xuân kiêu hãnh, kiên trì kia thì cô mới phát hiện ra nó chỉ là một bức tranh mà thôi.
Bức tranh ấy đó đúng là kiệt tác của cụ Bơ men đã vẽ tặng cho Giôn- xi khi chiếc lá sau cuối trên cây rơi xuống. Sáng hôm sau, cụ Bơ men đã ra đi mãi mãi bởi bị nhiễm lạnh sau một đêm đứng ngoài mưa tuyết, gió bão. Chi tiết này khiến người đọc cực kì cảm động vì tấm lòng lương thiện nhân văn cao quý của nhân vật Bơ men, sự ra đi của ông đã mang lại sự sống niềm tin cho Giôn-xi khiến người đọc cực kì xúc động về tình người ấm cúng trong tác phẩm.
Ông lão Bơ men ra đi nhưng kiệt tác chiếc lá sau cuối mà ông để lại sẽ sống mãi với thời gian. Nó thật sự là một kiệt tác lớn lao mà khi còn sống ông thường mơ ước sáng tác nó.
Bài văn phân tích cụ Bơ-men trong tác phẩm “Chiếc lá sau cuối” của O Hen-ri số 10
O Hen-ri là một nhà văn Mỹ chuyên viết truyện ngắn. Những tác phẩm của ông thường nhẹ nhàng nhưng toát lên tinh thần nhân đạo cao quý, tình yêu thương người nghèo khổ, rất cảm động. “Chiếc lá sau cuối” là truyện ngắn góp phần làm cho tên tuổi của O Hen- ri trở thành bất hủ. Trong mẩu chuyện ấy, ta thấy thấm đượm tình cảm cao đẹp giữa những người họa sỹ nghèo khổ, và đặc biệt để lại nhiều dư cảm sâu sắc nhất là nhân vật cụ Bơ-men.
Xiu, Giôn-xi và cụ Bơ-men, cái duyên số đã giúp cho họ gặp được nhau. Họ sống trong những căn phòng nhỏ xíu, tối tăm kiểu Hà Lan. Họ nghèo túng, cô đơn và vật chất họ thiếu thốn nhưng họ có tấm lòng yêu thương trong sáng và mãnh liệt. Ông già Bơ-men, một họa sỹ tốt bụng phải sống một cuộc sống đơn độc của tớ. Ông cô đơn, ốm đau không ai chăm sóc. Ông nghèo túng phải đi làm mẫu cho những họa sỹ khác kiếm chút tiền nhỏ mọn để sống vì những họa sỹ trẻ không đủ tiền thuê người mẫu khác được.
Cụ Bơ- em bốn chục năm nay cụ mơ ước vẽ một kiệt tác nhưng vẫn chưa tiến hành được, cụ thường ngồi làm mẫu vẽ cho những họa sỹ khác để kiếm tiền. Cuộc sống tuy nghèo nhưng cụ luôn giữ phẩm chất trong trắng, hoàn cảnh không thể làm cụ yếu mềm tinh thần. Chả thế mà cụ “ hay chế nhạo cay độc sự mềm yếu của bất kì ai”. Cụ Bơ-men luôn sống giàu tình thương, quyên tâm tới mọi người. Cụ muốn những người xung quanh mình phải mạnh mẽ và cứng rắn. Chúng ta cảm động khi biết cụ tự coi mình có nhiệm vụ bảo vệ Xiu và Giôn-xi ở phòng vẽ tầng trên.
“Bơ-men sống trong hang tối tờ mờ của ông ở tầng dưới, người nồng nặc mùi đỗ tùng”. Ông sống trong cô đơn một mình trong tuổi già và khi đau không ai chăm sóc: “Bác Bơ-men đã mất ở bệnh viện vì viêm phổi. Bác ấy ốm mới có hai ngày. Sáng hôm trước tiên, người gác cổng đã tìm thấy Bơ-men tại phòng riêng ở tầng dưới đau đớn chẳng ai chăm sóc, giày và quần áo ướt sũng lạnh như băng”.
Bác họa sỹ già ấy còn có một niềm khao khát, một mong muốn lớn lao là đóng góp cho đời một bức tranh nổi tiếng mặc dù cuộc đời họa sỹ của bác vẫn chưa vẽ được bức tranh nào đặc sắc:”Bơ-men là một kẻ thất bại trong nghệ thuật. Bốn mươi năm trời, ông vẫn chưa bút chạm tới đường viền chiếc áo của nàng nghệ thuật mà ông thờ phụng. Lúc nào ông cũng định vẽ một kiệt tác”.Trong bốn mươi năm ấy, ông chờ đón.
Chiếc khung vải căng thẳng trên giá vẽ luôn luôn chờ đón nét vẽ trước tiên của kiệt tác. Điều đó nói lên ý chí mạnh mẽ của ông, quyết tâm và mong ước lớn lao của ông. Cuối cùng bức họa ấy ra mắt trong một hoàn cảnh đặc biệt: giữa đêm mưa tuyết dưới ánh đèn bão, trên bức tường và họa sỹ đứng trên chiếc thang với xô đựng màu vẽ, ông vẽ một chiếc lá, ông vẽ chiếc lá, chiếc lá sau cuối giành cho Giôn- xi, chiếc lá nhiệm màu đã thức tỉnh Giôn- xi về lại với thực tại.
Chiếc lá là cả tấm lòng của cụ Bơ-men, là minh chứng cho sư hi sinh đến quên mình để đem lại sự sống cho người khác. Cụ đã làm được một điều mà bốn mươi năm qua hằng ao ước: vẽ một kiệt tác. Và có lẽ khi một con người nằm xuống cũng là lúc một tâm hồn được đánh thức, sẽ tiếp tục góp sức cho đời những sáng tác nghệ thuật. Câu chuyện kết thúc bằng lời kể của Xiu về cái đêm mà cụ Bơ-men vẽ chiếc lá mà không để cho Giôn- xi có phản ứng gì thêm như để lại dư âm trong lòng người đọc.
Bơ-men, ông có hành động đẹp đẽ và cao thượng. Hành động của ông thật đáng cảm phục. Bức họa ông rất thật, ông có tài năng năng thể hiện, làm tâm hồn người thưởng thức biến đổi đẹp đẽ lên và còn đóng góp mãi mãi cho đời sau. Cụ Bơ-men thật là một người có tình cảm tha thiết thương yêu những nghệ sĩ. Dù muộn nhưng cuối đời, cụ cũng đã tự mình làm nên điều kì tích, làm nên tác phẩm để đời, giúp ích cho đời, truyền cảm hứng cho đời một nhữngh mạnh mẽ.
Chiếc lá sau cuối vĩnh viễn không lìa cành nhưng cụ Bơ-men lại ra đi không thể nữa. Tác phẩm mà cụ để lại bằng tài năng, tâm huyết và tình yêu thương con người đã cứu sống một họa sỹ trẻ. Câu chuyện thật hay và ấm cúng tình người.
Từ khóa: Top 10 Bài văn phân tích cụ Bơ-men trong tác phẩm “Chiếc lá sau cuối” của O Hen-ri hay nhất
LADIGI – Công ty dịch vụ SEO giá rẻ, SEO từ khóa, SEO tổng thể, SEO web site cam kết lên Top Google uy tín chuyên nghiệp, an toàn, kết quả.
100 lần tự tìm hiểu cũng không bằng 1 lần được tư vấn