Top 6 Bài soạn “Sống chết mặc bay” của Phạm Duy Tốn lớp 7 hay nhất
Báo lỗi
“Sống chết mặc bay” được xem là tác phẩm thành công nhất của tác giả Phạm Duy Tốn. Truyện được viết vào tháng 7 năm 1918 thể hiện sự tắc trách rưới của quan phụ mẫu làng X dẫn đến cái chết của hàng bao nhiêu con người, nhà cửa, ruộng vườn đều bị thiệt hại nghiêm trọng. Với nghệ thuật tương phản và tăng cấp khéo léo, truyện ngắn đã thành công khi lên án gay gắt tên quan phụ mẫu và bày tỏ niềm thương cảm trước nỗi thống khổ của nhân dân. Mời những bạn đọc xem thêm một số bài soạn “Sống chết mặc bay” của Phạm Duy Tốn hay nhất mà Toplist tổng hợp trong bài viết dưới đây để thấy rõ hơn điều đó.
123456
1
Bài soạn “Sống chết mặc bay” của Phạm Duy Tốn số 1
I. Đôi nét về tác giả Phạm Duy Tốn
– Phạm Duy Tốn (1883-1924), nguyên quán Phượng Vũ, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây (nay là Thủ Đô Hà Nội), sinh quán thôn Đông Thọ (nay là phố Hàng Dầu, Thủ Đô Hà Nội)
– Ông là một trong số những nhà văn mở đường cho truyện ngắn hiện đại Việt Nam
– Truyện ngắn của ông thường viết về hiện thực xã hội đương thời
II. Đôi nét về tác phẩm Sống chết mặc bay
1. Hoàn cảnh ra mắt
– “Sống chết mặc bay” được sáng tác tháng 7 năm 1918
– Đây là tác phẩm được xem là thành công nhất của Phạm Duy Tốn
2. Tóm tắt
Sống chết mặc bay là mẩu chuyện về sự tắc trách rưới của quan phụ mẫu làng X, thuộc phủ X dẫn đến cái chết của hàng bao nhiêu con người, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết, kẻ sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn. Bởi trong những lúc dân chúng khổ cực, vất vả giữ đê ngăn nước lũ từ sông Nhị Hà thì quan phụ mẫu vẫn say sưa với ván bài tổ tôm trong cái đình cao và vững chãi, mặc kệ dân chúng ngoài kia.
3. Bố cục (3 phần)
– Phần 1 (từ đầu đến “khúc đê này vỡ mất”): Tình hình vỡ đê vá sức chống đỡ
– Phần 2 (tiếp theo đến “Điếu, mày!”): Cảnh quan phụ mẫu đánh tổ tôm khi “đi hộ đê”
– Phần 3 (sót lại): Cảnh vỡ đê và nhân dân lâm vào cảnh lầm than
4. Giá trị nội dung
“Sống chết mặc bay” đã lên án gay gắt tên quan phủ “lòng lang dạ thú” và bày tỏ niềm thương cảm trước cảnh “nghìn sầu muôn thảm” của nhân dân do thiên tai và cũng do thái độ vô trách rưới nhiệm của kẻ cầm quyền gây nên
5. Giá trị nghệ thuật
– Kết hợp nghệ thuật tương phản và tăng cấp khéo léo
– Lời văn cụ thể, sinh động, giàu cảm xúc
– Miêu tả nhân vật sắc nét
III. Hướng dẫn soạn bài
Câu 1 (trang 81 sgk ngữ văn 6 tập 2)
Truyện ngắn Sống chết mặc bay hoàn toàn có thể chia làm 3 đoạn:
Phần 1 (từ đầu … khúc đê này hỏng mất): Cảnh người dân chống con đê sắp vỡ
Phần 2 (tiếp… điếu mày): Bọn quan lại vô trách rưới nhiệm đánh tổ tôm bỏ mặc dân chúng trước cơn lũ
Phần 3 (sót lại) Đê vỡ nhân dân sa vào cảnh lầm than
Câu 2 (trang 81 sgk ngữ văn 6 tập 2)
– Hai mặt tương phản trong truyện:
Dân chúng vật lộn với bão lũ, chống chọi với mưa lũ vàgt;vàlt; Bọn quan lại hộ đê ngồi nơi an toàn, nhàn nhã đánh bài bạc bỏ mặc dân chúng
b, Cảnh người dân hộ đê: căng thẳng, nhốn nháo
+ Người dân bì bõm dưới bùn lầy, ướt như chuột lột, ai cũng mệt lử
+ Mưa tầm tã trút xuống, nước sông cuồn cuộn bốc lên
⇒ Thảm cảnh người dân chống cơn nước lũ buồn thảm, khổ cực
Cảnh bọn quan lại: nhàn nhã, an toàn
+ Quan lại ngồi nơi cao ráo, vững chãi, quây đánh tổ tôm
+ Cảnh trong đình nhàn nhã, đường bệ, nguy nga
⇒ Quan lại tắc trách rưới, tham lam
c, Hình ảnh viên quan hộ đê: bỏ mặc dân, ngồi chơi nhàn nhã
+ Đồ dùng sinh hoạt cho quan hộ đê thể hiện cuộc sống xa hoa: ống thuốc bạc, đồng hồ vàng, dao chuôi ngà
+ Quan ngồi chơi nhàn nhã, có kẻ hầu người hạ túc trực, được ăn cao lương mĩ vị
+ Quan đỏ mặt, tía tai đòi nhữngh chức, đuổi cổ người dân báo đê vỡ
→ Sự đê tiện, tham lam của tên quan vô lại
d, Tác giả dựng lên cảnh tương phản nhằm:
+ Tố cáo sự vô trách rưới nhiệm, tham lam, lòng lang dạ thú của bọn quan lại
+ Cảnh khốn cùng, vô vọng của người dân khi chống chọi bão lũ
+ Cảnh người dân thống khổ, cảnh quan sung sướng vì thắng ván bài
Câu 3 (trang 82 sgk ngữ văn 6 tập 2)
Phép tăng cấp được thể hiện trong nhiều mặt:
– Cảnh hộ đê của dân: tăng cấp theo mức độ nguy cấp: mưa tầm tã, vẫn mưa tầm tã trút xuống, nước sông dâng lên to quá
– Cảnh quan lại nhàn nhã, sa hoa trên đình đối lập với cảnh khốn khổ của dân chúng chống chọi với mưa lũ
– Phép tăng cấp dùng để mô tả thái độ vô trách rưới nhiệm, lòng dạ lang thú của viên quan:
+ Quan ngồi nơi vững chãi, an toàn, có kẻ hầu người hạ xung quanh
+ Quan la mắng, dọa dẫm đám người bẩm báo đê vỡ
+ Mức độ vô trách rưới nhiệm, cáu gắt vô lí của quan được thể hiện rõ nét
c, Sự phối hợp của nghệ thuật tăng cấp đã tố cáo, phê phán sự thờ ơ, tắc trách rưới của quan hộ đê.
+ Y vui mừng, sung sướng khi thắng ván bài trong những lúc dân khốn cùng, khổ cực.
→ Nghệ thuật đối làm tăng cao khả năng tố cáo, phê phán sâu sắc kẻ lòng lang dạ thú
Câu 4 (trang 82 sgk ngữ văn 6 tập 2)
– Giá trị hiện thực: Phản ánh bộ mặt giai cấp thống trị tham lam, vô trách rưới nhiệm mà tiêu biểu là tên quan phụ mẫu hộ đê
– Giá trị nhân đạo: Cảm thông với sự vất vả, khốn khổ của người lao động trước cảnh thiên nhiên.
– Giá trị nghệ thuật: Truyện ngắn bằng chữ quốc ngữ, nhân vật bắt đầu có tính nhữngh
+ Tác giả sử dụng thành biện pháp tương phản, tăng cấp nhằm trực tiếp phê phán thực chất xấu xa của bọn quan lại thú tính.
Luyện tập
Câu 1 (trang 83 sgk ngữ văn 6 tập 2): Những hình thức ngôn ngữ đã được vận dụng trong truyện Sống chết mặc bay là
Có tất cả các ngôn ngữ nêu đã nêu trừ ngôn ngữ độc thoại nội tâm.
Câu 2 (trang 83 sgk ngữ văn 6 tập 2): Qua ngôn ngữ đối thoại của quan phủ, em thấy tính nhữngh của nhân vật đó ra sao? Hãy nêu nhận xét về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tính nhữngh nhân vật.
Ngôn ngữ đối thoại của quan phủ, em thấy tính nhữngh của nhân vật quan phủ:
+ Hống hách, độc đoán, vô trách rưới nhiệm…
+ Hắn vô trách rưới nhiệm, bỏ mặc tính mạng của người dân
⇒ Giữa tính nhữngh và ngôn ngữ có mối liên hệ chặt chẽ , đó là thành công của tác giả
Ý nghĩa – Nhận xét
Qua lời văn cụ thể, sinh động và sự khéo léo trong việc vận dụng hai phép tương phản và tăng cấp trong nghệ thuật tự sự của tác giả, học viên thấy được tiếng nói phê phán hiện thực sâu sắc: lên án gay gắt tên quan phủ “lòng lang dạ thú”. Đồng thời học viên cảm nhận được tinh thần nhân đạo của tác phẩm trải qua niềm cảm thương trước tình cảnh “nghìn sầu muôn thảm” của nhân dân do thiên tai, cũng như thái độ vô trách rưới nhiệm của kẻ cầm quyền.

2
Bài soạn “Sống chết mặc bay” của Phạm Duy Tốn số 2
I. VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM
1. Tác giả
Phạm Duy Tốn (1883-1924) là một trong số ít người có thành tựu trước tiên về thể loại truyện ngắn hiện đại, trong đó Sống chết mặc bay là tác phẩm nổi trội nhất.
Mặc dù còn chịu ít nhiều tác động của Xu thế đạo đức truyền thống nhưng những truyện ngắn của Phạm Duy Tốn đã thiên về phản ánh hiện thực xã hội thối nát thời bấy giờ. Trong Sống chết mặc bay, ông tố cáo giai cấp thống trị độc ác bất nhân, chỉ ham ăn chơi phè phỡn, để mặc dân chúng trong cảnh ngập lụt.
2. Tác phẩm
Truyện ngắn thuộc loại hình tự sự, đặc trưng cơ bản nhất của nó là ngắn. Tuy nhiên, mức độ dài ngắn không hoàn toàn quyết định tính chất thể loại. Như trên đã nói, nhiều tác phẩm (có tính tự sự) thời trung đại nhưng không thể xếp vào loại truyện ngắn bởi ngoài tính chất về dung lượng, truyện ngắn còn có một số đặc trưng khác.
Khác với những truyện dài (ví dụ: tiểu thuyết) và truyện vừa thường tái hiện trọn vẹn cuộc đời một nhân vật, một sự kiện, hoàn cảnh,… truyện ngắn chỉ là một lát cắt, một khoảnh khắc, một hiện tượng nổi trội (cũng hoàn toàn có thể khác thường) của cuộc sống. Để đảm bảo với cùng 1 dung lượng nhỏ mà chuyển tải được những ý nghĩa sâu sắc lớn, ngôn ngữ truyện ngắn phải hàm súc đến mức tối đa. Các chi tiết “thừa” (đối với việc thể hiện nội dung cốt truyện), những chi tiết rườm rà đều bị lược bỏ để triệu tập vào những chi tiết chủ yếu nhất. Trong truyện ngắn, dường như hiện thực đời sống đã được “nén” chặt lại nhằm mục đích khắc hoạ nổi trội một hiện tượng, một nét thực chất trong quan hệ nhân sinh hay trong đời sống tâm hồn con người.
Trả lời câu 1 (trang 81 sgk Ngữ Văn 7 Tập 2):
Sống chết mặc bay hoàn toàn có thể chia làm mấy đoạn? Mỗi đoạn nói gì?
Phương pháp giải:
Truyện ngắn Sống chết mặc bay hoàn toàn có thể chia làm 3 đoạn:
– Đoạn 1 (từ đầu đến “Khúc đê này hỏng mất”): Nguy cơ đê bị vỡ và sự chống đỡ của người dân.
– Đoạn 2 (tiếp theo đến “Điếu, mày!”): Quan phụ mẫu vô trách rưới nhiệm, mải mê bài bạc trong những lúc đi hộ đê.
– Đoạn 3 (sót lại): Đê bị vỡ, nhân dân lâm vào cảnh thảm sầu.
Trả lời câu 2 (trang 81 sgk Ngữ Văn 7 Tập 2):
Phép tương phản (cũng gọi là đối lập) trong nghệ thuật là việc tạo ra những hành động, những cảnh tượng, những tính nhữngh trái ngược nhau để qua đó làm nổi trội một ý tưởng bộ phận trong tác phẩm hoặc tư tưởng chính của tác phẩm.
Dựa vào định nghĩa trên, em hãy:
a) Chỉ ra hai mặt tương phản cơ bản trong truyện Sống chết mặc bay.
b) Phân tích làm rõ từng mặt trong sự tương phản đó. (Chú ý đến những chi tiết thuộc về cảnh người dân đang hộ đê trong trạng thái nguy kịch và những chi tiết thuộc về cảnh tên quan đang cùng nha lại chơi bài trong đình với không khí tĩnh mịch, trang nghiêm.)
c) Chỉ qua hai mặt tương phản, hình ảnh tên quan phủ đi “hộ đê” được tác giả khắc họa ra sao. (Chú ý đên những chi tiết thuộc về: chỗ ở, điều kiện sinh hoạt trong những lúc đi “đốc thúc việc hộ đê”; nhữngh ngồi, tư thế, giọng điệu ngôn ngữ trước bọn nha lại, chánh tổng…, đặc biệt là thái độ, nhữngh nói khi đã có tin đê vỡ.)
d) Nêu lên dụng ý của tác giả trong việc dựng cảnh tương phản này.
Lời giải chi tiết:
Theo định nghĩa về phép tương phản:
a) Hai mặt tương phản cơ bản trong truyện Sống chết mặc bay: Một bên là người dân vật lộn, chống chọi với mưa gió hết sức căng thẳng, vất vả. Bên kia là viên quan đi hộ đê ngồi trong chỗ an toàn, nhàn nhã, mải mê bài bạc, không được cho phép ai quấy rầy ván bài của tớ, coi việc đánh bài là trên hết, mặc dân sống chết khi đê vỡ.
b) Những người dân hộ đê: Làm việc liên tục từ chiều đến gần một giờ đêm. Họ bì bõm dưới bùn lầy, ướt như chuột lột, ai cũng mệt lử cả rồi; trong những lúc mưa tầm tã trút xuống, nước sông cuồn cuộn bốc lên. Tác giả nhận xét: “Tình cảnh trông thật là thảm”.
c) Viên quan đi hộ đê thì ngồi trong đình ở chỗ cao ráo, an toàn. Người gãi chân, kẻ quạt mát, những tay chân ngồi hầu bài. Khung cảnh nhàn nhã, đường bệ, nguy nga. Quan chỉ mê bài. Đáng lẽ phải tắm mưa, gội gió, đứng trên đê đốc thúc, thì quan lại ngồi chơi nhàn nhã, có kẻ hầu, người hạ. Quan gắt khi có người báo tin đê vỡ. Quan đỏ mặt tía tai đòi nhữngh cổ, bỏ tù người dân báo đê vỡ. Và y tiếp tục vui mừng vì đã ù ván bài, mặc cho dân rơi vào cảnh đê vỡ, “tình cảnh thảm sầu” không sao kể xiết.
d) Tác giả dựng lên hai cảnh tương phản nhằm mục đích so sánh, làm nổi trội sự đối lập. Người có trách rưới nhiệm thì vô trách rưới nhiệm, chỉ ham mê bài bạc. Những người dân thì phải dầm mưa gội gió, nhọc nhằn, chống chọi với thiên nhiên một nhữngh vô vọng. Cuối cùng, sự vô trách rưới nhiệm của viên quan đã dẫn đến cảnh đê vỡ. Quan thì sung sướng vì nước bài cao, dân thì khổ vì nước lụt.
Trả lời câu 3 (trang 82 sgk Ngữ Văn 7 Tập 2):
Trong nghệ thuật văn chương còn có phép tăng cấp (lần lượt đưa thêm chi tiết và chi tiết sau phải cao hơn chi tiết trước), qua đó làm rõ thêm thực chất một sự việc, một hiện tượng muốn nói. Trong Sống chêt mặc bay, tác giả đã phối hợp khéo léo phép tương phản và phép tăng cấp để bộc lộ rõ nét tính nhữngh của nhân vật.
Em hãy phân tích, minh chứng ý kiến trên bằng phương pháp reply những câu hỏi sau:
a) Sự tăng cấp trong việc mô tả mức độ của trời mưa, của độ nước sông dâng cao, của nguy cơ vỡ đê, của cảnh vỡ đê vất vả, căng thẳng của người dân (trong đó có mức độ của tiếng trống đánh, ốc thổi, tiếng người gọi nhau sang hộ đê) là thế nào?
b) Sự tăng cấp trong việc mô tả mức độ đam mê bài bạc của tên quan ra sao?
c*) Hãy nhận xét về tác dụng của sự phối hợp hai nghệ thuật tương phản và tăng cấp trong việc vạch trần thực chất “lòng lang dạ thú” của tên quan phủ trước sinh mạng của người dân.
a) Phép tăng cấp đã được sử dụng để mô tả tình cảnh nguy ngập của khúc đê. Mưa mỗi lúc một tầm tã. Nước sông càng dâng cao. Dân chúng thì đuối sức, mệt lử cả rồi.
b) Phép tăng cấp cũng được sử dụng để mô tả thái độ vô trách rưới nhiệm, lòng lang dạ thú của viên quan. Viên quan hộ đê không cùng dân chống đỡ mà ngồi trong đình vững chãi, an toàn. Bao kẻ phải hầu hạ quan. Không phải là vì công việc mà chỉ vì một thú chơi bài. Quan chơi bài nhàn nhã, ung dung. Quan gắt khi có người quấy rầy. Quan quát mắng, đòi nhữngh cổ, bỏ tù khi có người báo đê vỡ. Quan sung sướng vì ván bài ù. Mức độ vô trách rưới nhiệm và cáu gắt vô lí của quan càng thể hiện rõ nét.
c*) Sự phối hợp của nghệ thuật tương phản và tăng cấp đã tố cáo và phê phán hành động ham mê bài bạc và vô trách rưới nhiệm của viên quan. Nếu viên quan chỉ ham đánh bạc thì đó là thói xấu trong sinh hoạt của cá nhân y. Nhưng y đánh bạc khi làm công vụ, cụ thể là khi đi hộ đê, liên quan đến tính mạng và tài sản của dân chúng thì đó là sự vô trách rưới nhiệm. Y thắng ván bài đã chờ thì y sung sướng là lẽ thường tình. Nhưng y thắng bài khi đê vỡ, y sung sướng khi bao người dân khổ sở, cùng cực thì sự vui mừng của y là một hành động phi nhân tính của kẻ lòng lang dạ thú. Chính sự phối hợp này đã làm cho tính chất tố cáo và phê phán thêm sâu sắc.
Trả lời câu 4 (trang 82 sgk Ngữ Văn 7 Tập 2):
Hãy phát biểu chung về giá trị hiện thực, nhân đạp và nghệ thuật (ngôn ngữ và hình tượng nhân vật,…) của truyện Sống chết mặc bay.
Trả lời:
+ Giá trị hiện thực của truyện Sống chết mặc bay là đã phản ánh bộ mặt của giai cấp thống trị mà tiêu biểu là tên quan có vai trò “cha mẹ” người dân nhưng đã chỉ ham mê bài bạc, hết sức vô trách rưới nhiệm, làm cho dân chúng khốn khổ vì đê vỡ, nước lụt.
+ Giá trị nhân đạo của truyện là đã cảm thông với sự vất vả, khốn khổ của người lao động trước cảnh thiên tai xảy ra do thái độ vô trách rưới nhiệm của bọn quan lại.
+ Giá trị nghệ thuật: Đây là truyện ngắn viết theo kiểu hiện đại bằng chữ Quốc ngữ. Nhân vật đã bước đầu có tính nhữngh. Tác giả đã sử dụng biện pháp tương phản, tăng cấp, phối hợp với lời comment trực tiếp để tố cáo và phê phán. Nhân vật quan phụ mẫu đã bộc lộ thực chất xấu xa, vô trách rưới nhiệm qua những hành động, lời nói của y với tay chân và với người dân.
LUYỆN TẬP
Trả lời câu 1 (trang 83 sgk Ngữ Văn 7 Tập 2):
Những hình thức ngôn ngữ đã được vận dụng trong truyện Sống chết mặc bay là gì? Hãy reply câu hỏi trên bằng phương pháp khắc ghi theo bảng thống kê tiếp sau này:
Trả lời:
Các hình thức đã được vận dụng trong truyện Sống chết mặc bay:
– Ngôn ngữ tự sự
– Ngôn ngữ biểu cảm
– Ngôn ngữ người kể chuyện
– Ngôn ngữ nhân vật
– Ngôn ngữ đối thoại
Trả lời câu 2 (trang 83 sgk Ngữ Văn 7 Tập 2):
Qua ngôn ngữ đối thoại của quan phủ, em thấy tính nhữngh của nhân vật đó ra sao? Hãy nêu nhận xét về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tính nhữngh nhân vật.
Trả lời:
Qua ngôn ngữ đối thoại của tên quan phủ, hoàn toàn có thể thấy hắn hiện lên với cùng 1 nhân nhữngh xấu xa, bỉ ổi. Đó là một tên quan vô trách rưới nhiệm, tham lam và tàn bạo. Từ đây cũng cần phải rút ra một nhận định rằng: trong tác phẩm tự sự ngôn ngữ có vai trò cực kì quan trọng trong việc hình thành nên tính nhữngh của nhân vật.
Nội dung chính
Qua lời văn cụ thể, sinh động và sự khéo léo trong việc vận dụng hai phép tương phản và tăng cấp trong nghệ thuật tự sự của tác giả, học viên thấy được tiếng nói phê phán hiện thực sâu sắc: lên án gay gắt tên quan phủ “lòng lang dạ thú”. Đồng thời học viên cảm nhận được tinh thần nhân đạo của tác phẩm trải qua niềm cảm thương trước tình cảnh “nghìn sầu muôn thảm” của nhân dân do thiên tai, cũng như thái độ vô trách rưới nhiệm của kẻ cầm quyền.

3
Bài soạn “Sống chết mặc bay” của Phạm Duy Tốn số 3
I – KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG
1. Tác giả
Phạm Duy Tốn (1883 – 1924), nguyên quán làng Phượng Vũ, huyện Thường Tín ; sinh ra và lớn lên ở thôn Đông Thọ (nay là phố Hàng Dầu), Thủ Đô Hà Nội. Ông là người viết văn, làm báo và có thành tựu trước tiên về thể loại truyện ngắn hiện đại.
2. Tác phẩ,
Bằng lời văn cụ thể, sinh động, bằng sự khéo léo trong việc vận dụng phối hợp nghệ thuật tương phản và tăng cấp, Sống chết mặc bay đã lên án gay gắt tên quan phụ mẫu “lòng lang dạ thú” và bày tỏ niềm cảm thông trước cảnh “nghìn sầu muôn thảm” của nhân dân do thiên tai và cũng do thái độ vô trách rưới nhiệm của kẻ cầm quyền gây ra.
II – HƯỚNG DẪN ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN
Câu 1. Truyện ngắn Sống chết mặc bay hoàn toàn có thể chia làm 3 đoạn :
Đoạn 1 (từ đầu đến “Khúc đê này hỏng mất”) : Nguy cơ đê bị vỡ và sự chống đỡ của người dân.
Đoạn 2 (tiếp theo đến “Điếu, mày !”) : Quan phụ mẫu vô trách rưới nhiệm, mải mê bài bạc trong những lúc đi hộ đê.
Đoạn 3 (sót lại) : Đê bị vỡ, nhân dân lâm vào cảnh thảm sầu.
Câu 2. Theo định nghĩa về phép tương phản :
a) Hai mặt tương phản cơ bản trong truyện Sống chết mặc bay : Một bên là người dân vật lộn, chống chọi với mưa gió hết sức căng thẳng, vất vả. Bên kia là viên quan đi hộ đê ngồi trong chỗ an toàn, nhàn nhã, mải mê bài bạc, không được cho phép ai quấy rầy ván bài của tớ, coi việc đánh bài là trên hết, mặc dân sống chết khi đê vỡ.
b) Những người dân hộ đê : Làm việc liên tục từ chiều đến gần một giờ đêm. Họ bì bõm dưới bùn lầy, ướt như chuột lột, ai cũng mệt lử cả rồi; trong những lúc mưa tầm tã trút xuống, nước sông cuồn cuộn bốc lên. Tác giả nhận xét : “Tình cảnh trông thật là thảm”.
c) Viên quan đi hộ đê thì ngồi trong đình ở chỗ cao ráo, an toàn. Người gãi chân, kẻ quạt mát, những tay chân ngồi hầu bài. Khung cảnh nhàn nhã, đường bệ, nguy nga. Quan chỉ mê bài. Đáng lẽ phải tắm mưa, gội gió, đứng trên đê đốc thúc, thì quan lại ngồi chơi nhàn nhã, có kẻ hầu, người hạ. Quan gắt khi có người báo tin đê vỡ. Quan đỏ mặt tía tai đòi nhữngh cổ, bỏ tù người dân báo đê vỡ. Và y tiếp tục vui mừng vì đã ù ván bài, mặc cho dân rơi vào cảnh đê vỡ, “tình cảnh thảm sầu” không sao kể xiết.
d) Tác giả dựng lên hai cảnh tương phản nhằm mục đích so sánh, làm nổi trội sự đốì lập. Người có trách rưới nhiệm thì vô trách rưới nhiệm, chỉ ham mê bài bạc. Những người dân thì phải dầm mưa gội gió, nhọc nhằn, chông choi với thiên nhiên một nhữngh vô vọng. Cuối cùng, sự vô trách rưới nhiệm của viên quan đã dẫn đến cảnh đê vỡ. Quan thì sung sướng vì nước bài cao, dân thì khổ vì nước lụt.
Câu 3. a) Phép tăng cấp đã được sử dụng để mô tả tình cảnh nguy ngập của khúc đê. Mưa mỗi lúc một tầm tã. Nước sông càng dâng cao. Dân chúng thì đuối sức, mệt lử cả rồi.
b) Phép tăng cấp cũng được sử dụng để mô tả thái độ vô trách rưới nhiệm, lòng lang dạ thú của viên quan. Viên quan hộ đê không cùng dân chống đỡ mà ngồi trong đình vững chãi, an toàn. Bao kẻ phải hầu hạ quan. Không phải là vì công việc mà chỉ vì một thú chơi bài. Quan chơi bài nhàn nhã, ung dung. Quan gắt khi có người quấy rầy. Quan quát mắng, đòi nhữngh cổ, bỏ tù khi có người báo đê vỡ. Quan sung sướng vì ván bài ù. Mức độ vô trách rưới nhiệm và cáu gắt vô lí của quan càng thể hiện rõ nét.
c) Sự phối hợp của nghệ thuật tương phản và tăng cấp đã tố cáo và phê phán hành động ham mê bài bạc và vô trách rưới nhiệm của viên quan. Nếu viên quan chỉ ham đánh bạc thì đó là thói xấu trong sinh hoạt của cá nhân y. Nhưng y đánh bạc khi làm công vụ, cụ thể là khi đi hộ đê, liên quan đến tính mạng và tài sản của dân chúng thì đó là sự vô trách rưới nhiệm. Y thắng ván bài đã chờ thì y sung sướng là lẽ thường tình. Nhung y thắng bài khi đê vỡ, y sung sướng khi bao người dân khổ sở, cùng cực thì sự vui mừng của y là một hành động phi nhân tính của kẻ lòng lang dạ thú. Chính sự phối hợp này đã làm cho tính chất tố cáo và phê phán thêm sâu sắc.
Câu 4. Giá trị hiện thực của truyện Sống chết mặc bay là đã phản ánh bộ mặt của giai cấp thống trị mà tiêu biểu là tên quan có vai trò “cha mẹ” người dân nhưng đã chỉ ham mê bài bạc, hết sức vô trách rưới nhiệm, làm cho dân chúng khốn khổ vì đê vỡ, nước lụt.
Giá trị nhân đạo của truyện là đã cảm thông với sự vất vả, khốn khổ của người lao động trước cảnh thiên tai xảy ra do thái độ vô trách rưới nhiệm của bọn quan lại.
Giá trị nghệ thuật : Đây là truyện ngắn viết theo kiểu hiện đại bằng chữ Quốc ngữ. Nhân vật đã bước đầu có tính nhữngh. Tác giả đã sử dụng biện pháp tương phản, tăng cấp, phối hợp với lời comment trực tiếp để tố cáo và phố phán. Nhân vật quan phụ mẫu đã bộc lộ thực chất xấu xa, vô trách rưới nhiệm qua những hành động, lời nói của y với tay chân và với người dân.
III – HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP
Câu 1. Em hãy để ý đến tính chất đa dạng khi phối hợp những hình thức ngôn ngữ trong một tác phẩm tự sự hiện đại (khác với truyện dân gian và truyện trung đại). Trong tác phẩm, có ngôn ngữ mô tả, thể hiện rõ nhất trong đoạn văn tả cảnh quan đánh bài trong đình và những đồ dùng mà viên quan mang theo. Các hình thức ngôn ngữ khác, khi tìm được, hãy khắc ghi vào cột có.
Câu 2. Nhân vật viên quan là một kẻ hống hách, độc đoán, vô trách rưới nhiệm,… Ngôn ngữ của y ngắn, gọn, mang đậm tính mệnh lệnh : Y gọi : Điếu, mày ! Y đồng ý bằng một tiếng : Ừ. Y đối thoại có khi trống không : Mặc kệ ! Có ăn không thì bốc chứ ! Đuổi cổ nó ra !
Khi bực mình, y tuôn ra hàng tràng dài những lời quở trách rưới :
– Đê vỡ rồi !… Đê vỡ rồi thời ông nhữngh cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày. Có biết không ?… Lính đâu ? Sao bay dám để cho nó chạy xồng xộc vào đó như vậy ? Không còn phép tắc gì nữa ả ?
Giữa ngôn ngữ và tính nhữngh nhân vật có mốì liên hệ chặt chẽ. Ngôn ngữ phản ánh tính nhữngh của nhân vật. Đây là sự thành công trong nghệ thuật của tác giả.

4
Bài soạn “Sống chết mặc bay” của Phạm Duy Tốn số 4
TÌM HIỂU VỀ TÁC GIẢ, TÁC PHẨM
1. Tác giả
– Phạm Duy Tốn (1883 – 1924) : nguyên quán làng Phượng Vũ, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Thủ Đô Hà Nội) ; sinh quán thôn Đông Thọ (nay là phố Hàng Dầu, Thủ Đô Hà Nội).
– Là nhà văn xã hội tiên phong của nền văn học mới Việt Nam hồi đầu thế kỷ 20, một trong số ít người có thành tựu trước tiên về thể loại truyện ngắn hiện đại.
– Phạm Duy Tốn viết văn không nhiều, những tác phẩm của ông thường có khuynh hướng hòa nhập vào xã hội hiện thực rất rõ ràng, sâu sắc.
– Mặc dù còn chịu ít nhiều tác động của Xu thế đạo đức truyền thống nhưng những truyện ngắn của Phạm Duy Tốn đã thiên về phản ánh hiện thực xã hội thối nát thời bấy giờ. Trong Sống chết mặc bay, ông tố cáo giai cấp thống trị độc ác bất nhân, chỉ ham ăn chơi phè phỡn, để mặc dân chúng trong cảnh ngập lụt.
– Toàn bộ văn nghiệp của ông chỉ để lại có bốn truyện ngắn: Bực mình hay Câu chuyện thương tâm (1914), Sống chết mặc bay! (1918), Con người Sở Khanh (1919), Nước đời lắm nỗi (1919).
2. Tác phẩm
– “Sống chết mặc bay!” là truyện ngắn đầu tay và nổi tiếng nhất của Phạm Duy Tốn, cũng là truyện ngắn trước tiên của nền văn học mới Việt Nam, in trên báo Nam Phong tháng 12 năm 1918.
– Sự canh tân của truyện ngắn Sống chết mặc bay! không chỉ có ở nội dung và những chi tiết mô tả rất đắt, mà còn ở hình thức thể hiện mới mẻ.
– Nội dung: Truyện lên án gay gắt tên quan phủ “lòng lang dạ thú” và bày tỏ niềm thương cảm trước cảnh “nghìn sầu muôn thảm” của nhân dân do thiên tai và cũng do thái độ vô trách rưới nhiệm của kẻ cầm quyền gây nên. có vẻ như hiện thực đời sống đã được “nén” chặt lại nhằm mục đích khắc hoạ nổi trội một hiện tượng, một nét thực chất trong quan hệ nhân sinh hay trong đời sống tâm hồn con người.
– Nghệ thuật:
+ Lời văn cụ thể, sinh động, những chi tiết mô tả rất đắt, hình thức thể hiện mới mẻ
+ Kết hợp thành công nghệ thuật tương phản và nghệ thuật tăng cấp
+ Thành công trong việc mô tả hai hình ảnh tương phản đối lập gay gắt: những người nông dân vất vả, hoảng hốt và hoàn toàn vô vọng trước thiên tai; còn viên quan sở tại an nhàn, hưởng thụ, mặc kệ số phận thường dân.
– Bố cục: 3 phần
+ Phần 1 (Từ đầu đến … “khúc đê này hỏng mất”) : Nguy cơ vỡ đê và sự chống đỡ của người dân.
+ Phần 2 (Tiếp theo đến “Điếu mày”) : Cảnh quan phủ cùng nha lại đánh tổ tôm trong những lúc “đi hộ đê”.
+ Phần 3 (Còn lại) : Cảnh đê vỡ, nhân dân lâm vào tình trạng thảm sầu.
3. Tóm tắt ngắn gọn tác phẩm Sống chết mặc bay
Nửa đêm, ở làng X thuộc phủ X, nước sông Nhị Hà ngày một dâng cao khiến khúc đê có nguy cơ vỡ. Hàng trăm hàng nghìn người dân ra sức chống chọi với sức nước. Trong khi đó bậc Quan phụ mẫu – kẻ được cử đi để giúp dân hộ đê lại đi chơi tổ tôm với đám nha lại trong đình. Hắn ung dung chơi bài cùng với bao kẻ hầu người hạ ngồi bên cạnh, lại còn mang biết bao đồ đạc quí hiếm để đi hộ đê. Y mải miết chơi tổ tôm đến mức ko biết gì đến những tiếng kêu, tiếng tù và của dân phu và bao người dân ở ngoài đê. Ngay cả khi có người vào báo đê vỡ , hắn lại mắng chửi rồi lại ung dung chơi bài tiếp. Cuối cùng, khi quan lớn ù ván bài thật to, cũng là lúc khắp mọi nơi miền đó, nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết, kẻ sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn.
ĐỌC – HIỂU
Câu 1 – Trang 81 SGK
Sống chết mặc bay hoàn toàn có thể chia làm mấy đoạn? Mỗi đoạn nói gì?
Trả lời:
Truyện ngắn Sống chết mặc bay hoàn toàn có thể chia làm 3 đoạn:
– Đoạn 1 (từ đầu đến “Khúc đê này hỏng mất”): Nguy cơ đê bị vỡ và sự chống đỡ của người dân.
– Đoạn 2 (tiếp theo đến “Điếu, mày!”): Quan phụ mẫu vô trách rưới nhiệm, mải mê bài bạc trong những lúc đi hộ đê.
– Đoạn 3 (sót lại): Đê bị vỡ, nhân dân lâm vào cảnh thảm sầu.
Câu 2 – Trang 81 SGK
Phép tương phản (cũng gọi là đối lập) trong nghệ thuật là việc tạo ra những hành động, những cảnh tượng, những tính nhữngh trái ngược nhau để qua đó làm nổi trội một ý tưởng bộ phận trong tác phẩm hoặc tư tưởng chính của tác phẩm.
Dựa vào định nghĩa trên, em hãy:
a) Chỉ ra hai mặt tương phản cơ bản trong truyện Sống chết mặc bay.
b) Phân tích làm rõ từng mặt trong sự tương phản đó.
c) Chỉ qua hai mặt tương phản, hình ảnh tên quan phủ đi “hộ đê” được tác giả khắc họa ra sao?
d) Nêu lên dụng ý của tác giả trong việc dựng cảnh tương phản này.
Trả lời:
a) Hai mặt tương phản cơ bản trong truyện Sống chết mặc bay: Một bên là người dân vật lộn, chống chọi với mưa gió hết sức căng thẳng, vất vả. Bên kia là viên quan đi hộ đê ngồi trong chỗ an toàn, nhàn nhã, mải mê bài bạc, không được cho phép ai quấy rầy ván bài của tớ, coi việc đánh bài là trên hết, mặc dân sống chết khi đê vỡ.
b) Những người dân hộ đê: Làm việc liên tục từ chiều đến gần một giờ đêm. Họ bì bõm dưới bùn lầy, ướt như chuột lột, ai cũng mệt lử cả rồi; trong những lúc mưa tầm tã trút xuống, nước sông cuồn cuộn bốc lên. Tác giả nhận xét: “Tình cảnh trông thật là thảm”.
c) Viên quan đi hộ đê thì ngồi trong đình ở chỗ cao ráo, an toàn. Người gãi chân, kẻ quạt mát, những tay chân ngồi hầu bài. Khung cảnh nhàn nhã, đường bệ, nguy nga. Quan chỉ mê bài. Đáng lẽ phải tắm mưa, gội gió, đứng trên đê đốc thúc, thì quan lại ngồi chơi nhàn nhã, có kẻ hầu, người hạ. Quan gắt khi có người báo tin đê vỡ. Quan đỏ mặt tía tai đòi nhữngh cổ, bỏ tù người dân báo đê vỡ. Và y tiếp tục vui mừng vì đã ù ván bài, mặc cho dân rơi vào cảnh đê vỡ, “tình cảnh thảm sầu” không sao kể xiết.
d) Tác giả dựng lên hai cảnh tương phản nhằm mục đích so sánh, làm nổi trội sự đối lập. Người có trách rưới nhiệm thì vô trách rưới nhiệm, chỉ ham mê bài bạc. Những người dân thì phải dầm mưa gội gió, nhọc nhằn, chống chọi với thiên nhiên một nhữngh vô vọng. Cuối cùng, sự vô trách rưới nhiệm của viên quan đã dẫn đến cảnh đê vỡ. Quan thì sung sướng vì nước bài cao, dân thì khổ vì nước lụt.
Câu 3 – Trang 82 SGK
Trong nghệ thuật văn chương còn có phép tăng cấp (lần lượt đưa thêm chi tiết và chi tiết sau phải cao hơn chi tiết trước), qua đó làm rõ thêm thực chất một sự việc, một hiện tượng muốn nói. Trong Sống chết mặc bay, tác giả đã phối hợp khéo léo phép tương phản và phép tăng cấp để bộc lộ rõ nét tính nhữngh của nhân vật.
Em hãy phân tích, minh chứng ý kiến trên bằng phương pháp reply những câu hỏi sau:
a) Sự tăng cấp trong việc mô tả mức độ của trời mưa, của độ nước sông dâng cao, của nguy cơ vỡ đê, của cảnh vỡ đê vất vả, căng thẳng của người dân (trong đó có mức độ của tiếng trống đánh, ốc thổi, tiếng người gọi nhau sang hộ đê) là thế nào?
b) Sự tăng cấp trong việc mô tả mức độ đam mê bài bạc của tên quan ra sao?
c*) Hãy nhận xét về tác dụng của sự phối hợp hai nghệ thuật tương phản và tăng cấp trong việc vạch trần thực chất “lòng lang dạ thú” của tên quan phủ trước sinh mạng của người dân.
Trả lời:
a) Phép tăng cấp đã được sử dụng để mô tả tình cảnh nguy ngập của khúc đê. Mưa mỗi lúc một tầm tã, nước sông càng dâng cao, dân chúng thì đuối sức, mệt lử cả rồi.
b) Phép tăng cấp cũng được sử dụng để mô tả thái độ vô trách rưới nhiệm, lòng lang dạ thú của viên quan. Viên quan hộ đê không cùng dân chống đỡ mà ngồi trong đình vững chãi, an toàn. Bao kẻ phải hầu hạ quan. Không phải là vì công việc mà chỉ vì một thú chơi bài. Quan chơi bài nhàn nhã, ung dung. Quan gắt khi có người quấy rầy. Quan quát mắng, đòi nhữngh cổ, bỏ tù khi có người báo đê vỡ. Quan sung sướng vì ván bài ù. Mức độ vô trách rưới nhiệm và cáu gắt vô lí của quan càng thể hiện rõ nét.
c*) Sự phối hợp của nghệ thuật tương phản và tăng cấp đã tố cáo và phê phán hành động ham mê bài bạc và vô trách rưới nhiệm của viên quan. Nếu viên quan chỉ ham đánh bạc thì đó là thói xấu trong sinh hoạt của cá nhân y. Nhưng y đánh bạc khi làm công vụ, cụ thể là khi đi hộ đê, liên quan đến tính mạng và tài sản của dân chúng thì đó là sự vô trách rưới nhiệm. Y thắng ván bài đã chờ thì y sung sướng là lẽ thường tình. Nhưng y thắng bài khi đê vỡ, y sung sướng khi bao người dân khổ sở, cùng cực thì sự vui mừng của y là một hành động phi nhân tính của kẻ lòng lang dạ thú. Chính sự phối hợp này đã làm cho tính chất tố cáo và phê phán thêm sâu sắc.
Câu 4 – Trang 82 SGK
Hãy phát biểu chung về giá trị hiện thực, nhân đạo và nghệ thuật (ngôn ngữ và hình tượng nhân vật,…) của truyện Sống chết mặc bay.
Trả lời:
+ Giá trị hiện thực của truyện Sống chết mặc bay là đã phản ánh bộ mặt của giai cấp thống trị mà tiêu biểu là tên quan có vai trò “cha mẹ” người dân nhưng đã chỉ ham mê bài bạc, hết sức vô trách rưới nhiệm, làm cho dân chúng khốn khổ vì đê vỡ, nước lụt.
+ Giá trị nhân đạo của truyện là đã cảm thông với sự vất vả, khốn khổ của người lao động trước cảnh thiên tai xảy ra do thái độ vô trách rưới nhiệm của bọn quan lại.
+ Giá trị nghệ thuật: Đây là truyện ngắn viết theo kiểu hiện đại bằng chữ Quốc ngữ. Nhân vật đã bước đầu có tính nhữngh. Tác giả đã sử dụng biện pháp tương phản, tăng cấp, phối hợp với lời comment trực tiếp để tố cáo và phê phán. Nhân vật quan phụ mẫu đã bộc lộ thực chất xấu xa, vô trách rưới nhiệm qua những hành động, lời nói của y với tay chân và với người dân.
LUYỆN TẬP
Câu 1 – Trang 83 SGK
Những hình thức ngôn ngữ đã được vận dụng trong truyện Sống chết mặc bay là gì? Hãy reply câu hỏi trên bằng phương pháp khắc ghi theo bảng thống kê tiếp sau này:
Trả lời:
Các hình thức ngôn ngữ đã được vận dụng trong truyện Sống chết mặc bay:
Hình thức ngôn ngữ
Ngôn ngữ tự sự
Ngôn ngữ mô tả
Ngôn ngữ biểu cảm
Ngôn ngữ người kể chuyện
Ngôn ngữ nhân vật
Ngôn ngữ đối thoại
Câu 2* – Trang 83 SGK
Qua ngôn ngữ đối thoại của quan phủ, em thấy tính nhữngh của nhân vật đó ra sao? Hãy nêu nhận xét về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tính nhữngh nhân vật.
Trả lời:
Qua ngôn ngữ đối thoại của tên quan phủ, hoàn toàn có thể thấy hắn hiện lên với cùng 1 nhân nhữngh xấu xa, bỉ ổi. Đó là một tên quan vô trách rưới nhiệm, tham lam và tàn bạo. Từ đây cũng cần phải rút ra một nhận định rằng: trong tác phẩm tự sự ngôn ngữ có vai trò cực kì quan trọng trong việc hình thành nên tính nhữngh của nhân vật.

5
Bài soạn “Sống chết mặc bay” của Phạm Duy Tốn số 5
A.KIẾN THỨC TRỌNG TÂM
1.Tác giả:
Phạm Duy Tốn (1883-1924)
Quê quán: làng Phượng Vũ, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây
Là một trong số ít người có thành tựu trước tiên về thể loại truyện ngắn hiện đại, trong đó Sống chết mặc bay là tác phẩm nổi trội nhất.
Mặc dù còn chịu ít nhiều tác động của Xu thế đạo đức truyền thống nhưng những truyện ngắn của Phạm Duy Tốn đã thiên về phản ánh hiện thực xã hội thối nát thời bấy giờ. Trong Sống chết mặc bay, ông tố cáo giai cấp thống trị độc ác bất nhân, chỉ ham ăn chơi phè phỡn, để mặc dân chúng trong cảnh ngập lụt.
2. Tác phẩm:
Sống chết mặc bay được xếp vào thể loại truyện ngắn. Ở Việt Nam, khoảng đầu thế kỉ XX, khái niệm này còn tương đối mới mẻ. Thời trung đại cũng đã có truyện hoặc những tác phẩm có tính chất tự sự nhưng không tồn tại tác phẩm nào thể hiện được những đặc trưng cơ bản của thể loại này.
Truyện ngắn thuộc loại hình tự sự, đặc trưng cơ bản nhất của nó là ngắn. Truyện ngắn chỉ là một lát cắt, một khoảnh khắc, một hiện tượng nổi trội (cũng hoàn toàn có thể khác thường) của cuộc sống. Các chi tiết “thừa” (đối với việc thể hiện nội dung cốt truyện), những chi tiết rườm rà đều bị lược bỏ để triệu tập vào những chi tiết chủ yếu nhất. Trong truyện ngắn, dường như hiện thực đời sống đã được “nén” chặt lại nhằm mục đích khắc hoạ nổi trội một hiện tượng, một nét thực chất trong quan hệ nhân sinh hay trong đời sống tâm hồn con người.
3. Tóm tắt tác phẩm:
Gần một giờ đêm, trời mưa tầm tã, nước sông Nhị Hà lên to, khúc đê làng X có nguy cơ sẽ vỡ. Hàng trăm hàng nghìn người dân ra sức chống chọi với sức nước. Thế mà tại ngôi đình trên một khúc đê gần đó, quan phụ mẫu vẫn ung dung cùng những quan đánh bài. Có người báo đê vỡ, ngài vẫn thản nhiên quát mắng. Cuối cùng, khi quan ù ván bài thật to, cũng là lúc “khắp mọi nơi miền đó, nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết, kẻ sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn”.
B. BÀI TẬP VÀ HƯỚNG DẪN GIẢI
Câu 1: Trang 81 sgk ngữ văn 7 tập 2
Sống chết mặc bay hoàn toàn có thể chia làm mấy đoạn? Mỗi đoạn nói gì?
Bài làm:
Truyện ngắn Sống chết mặc bay hoàn toàn có thể chia làm 3 đoạn:
Đoạn 1: Từ đầu đến “Khúc đê này hỏng mất”
=vàgt; Nguy cơ đê bị vỡ và sự chống đỡ của người dân.
Đoạn 2: Tiếp theo đến “Điếu, mày!”
=vàgt; Quan phụ mẫu vô trách rưới nhiệm, mải mê bài bạc trong những lúc đi hộ đê.
Đoạn 3: Còn lại
=vàgt; Đê bị vỡ, nhân dân lâm vào cảnh thảm sầu.
Câu 2: Trang 81 sgk ngữ văn 7 tập 2
Phép tương phản (cũng gọi là đối lập) trong nghệ thuật là việc tạo ra những hành động, những cảnh tượng, những tính nhữngh trái ngược nhau để qua đó làm nổi trội một ý tưởng bộ phận trong tác phẩm hoặc tư tưởng chính của tác phẩm.
Dựa vào định nghĩa trên em hãy:
a. Chỉ ra hai mặt tương phản cơ bản trong truyện Sống chết mặc bay.
b. Phân tích làm rõ từng mặt tương phản đó.
c. Chỉ ra hai mặt tương phản, hình ảnh tên quan phủ đi hộ đê được tác giả khắc hoạ như thê nào?
d. Nêu lên dụng ý của tác giả trong việc dựng lên cảnh tương phản này.
Bài làm:
Câu a: Hai mặt tương phản cơ bản trong truyện Sống chết mặc bay: Một bên là người dân vật lộn, chống chọi với mưa gió hết sức căng thẳng, vất vả. Bên kia là viên quan đi hộ đê ngồi trong chỗ an toàn, nhàn nhã, mải mê bài bạc, không được cho phép ai quấy rầy ván bài của tớ, coi việc đánh bài là trên hết, mặc dân sống chết khi đê vỡ.
Câu b: Những người dân hộ đê: Làm việc liên tục từ chiều đến gần một giờ đêm. Họ bì bõm dưới bùn lầy, ướt như chuột lột, ai cũng mệt lử cả rồi; trong những lúc mưa tầm tã trút xuống, nước sông cuồn cuộn bốc lên. Tác giả nhận xét: “Tình cảnh trông thật là thảm”.
Câu c: Viên quan đi hộ đê thì ngồi trong đình ở chỗ cao ráo, an toàn. Người gãi chân, kẻ quạt mát, những tay chân ngồi hầu bài. Khung cảnh nhàn nhã, đường bệ, nguy nga. Quan chỉ mê bài. Đáng lẽ phải tắm mưa, gội gió, đứng trên đê đốc thúc, thì quan lại ngồi chơi nhàn nhã, có kẻ hầu, người hạ. Quan gắt khi có người báo tin đê vỡ. Quan đỏ mặt tía tai đòi nhữngh cổ, bỏ tù người dân báo đê vỡ. Và y tiếp tục vui mừng vì đã ù ván bài, mặc cho dân rơi vào cảnh đê vỡ, “tình cảnh thảm sầu” không sao kể xiết.
Câu d: Tác giả dựng lên hai cảnh tương phản nhằm mục đích so sánh, làm nổi trội sự đối lập. Người có trách rưới nhiệm thì vô trách rưới nhiệm, chỉ ham mê bài bạc. Những người dân thì phải dầm mưa gội gió, nhọc nhằn, chống chọi với thiên nhiên một nhữngh vô vọng. Cuối cùng, sự vô trách rưới nhiệm của viên quan đã dẫn đến cảnh đê vỡ. Quan thì sung sướng vì nước bài cao, dân thì khổ vì nước lụt.
Câu 3: Trang 82 sgk ngữ văn 7 tập 2
Trong nghệ thuật văn chương còn có phép tăng cấp (lần lượt đưa thêm chi tiết và chi tiết sau phải cao hơn chi tiết trước), qua đó làm rõ thêm thực chất một sự việc, một hiện tượng muốn nói. Trong Sống chết mặc bay, tác giả đã phối hợp khéo léo phép tương phản và phép tăng cấp để bộc lộ rõ nét tính nhữngh của nhân vật.
Em hãy phân tích, minh chứng ý kiến trên bằng phương pháp reply những câu hỏi sau:
a. Sự tăng cấp trong việc mô tả mức độ của trời mưa, của đôh nước sông dâng cao, của nguy cơ vỡ đê, của cảnh hộ đê vất vả, căng thẳng của người dân là thế nào?
b. Sự tăng cấp trong việc mô tả mức độ đam mê bài bạc của quan phủ ra sao?
c. Hãy nhận xét về tác dụng của việc phối hợp hai nghệ thuật tương phản và tăng cấp trong việc vạch trần thực chất “ lòng lang dạ thú” của tên quan phủ trước sinh mạng của người dân.
Bài làm:
Câu a: Phép tăng cấp đã được sử dụng để mô tả tình cảnh nguy ngập của khúc đê. Mưa mỗi lúc một tầm tã. Nước sông càng dâng cao. Dân chúng thì đuối sức, mệt lử cả rồi.
Câu b: Phép tăng cấp cũng được sử dụng để mô tả thái độ vô trách rưới nhiệm, lòng lang dạ thú của viên quan. Viên quan hộ đê không cùng dân chống đỡ mà ngồi trong đình vững chãi, an toàn. Bao kẻ phải hầu hạ quan. Không phải là vì công việc mà chỉ vì một thú chơi bài. Quan chơi bài nhàn nhã, ung dung. Quan gắt khi có người quấy rầy. Quan quát mắng, đòi nhữngh cổ, bỏ tù khi có người báo đê vỡ. Quan sung sướng vì ván bài ù. Mức độ vô trách rưới nhiệm và cáu gắt vô lí của quan càng thể hiện rõ nét.
Câu c*: Sự phối hợp của nghệ thuật tương phản và tăng cấp đã tố cáo và phê phán hành động ham mê bài bạc và vô trách rưới nhiệm của viên quan. Nếu viên quan chỉ ham đánh bạc thì đó là thói xấu trong sinh hoạt của cá nhân y. Nhưng y đánh bạc khi làm công vụ, cụ thể là khi đi hộ đê, liên quan đến tính mạng và tài sản của dân chúng thì đó là sự vô trách rưới nhiệm. Y thắng ván bài đã chờ thì y sung sướng là lẽ thường tình. Nhưng y thắng bài khi đê vỡ, y sung sướng khi bao người dân khổ sở, cùng cực thì sự vui mừng của y là một hành động phi nhân tính của kẻ lòng lang dạ thú. Chính sự phối hợp này đã làm cho tính chất tố cáo và phê phán thêm sâu sắc.
Câu 4: Trang 82 sgk ngữ văn 7 tập 2
Hãy phát biểu chung về giá trị hiện thực, nhân đạo và nghệ thuật (ngôn ngữ, hình tượng,…) của truyện Sống chết mặc bay.
Bài làm:
Giá trị hiện thực của truyện Sống chết mặc bay là đã phản ánh bộ mặt của giai cấp thống trị mà tiêu biểu là tên quan có vai trò “cha mẹ” người dân nhưng đã chỉ ham mê bài bạc, hết sức vô trách rưới nhiệm, làm cho dân chúng khốn khổ vì đê vỡ, nước lụt.
Giá trị nhân đạo của truyện là đã cảm thông với sự vất vả, khốn khổ của người lao động trước cảnh thiên tai xảy ra do thái độ vô trách rưới nhiệm của bọn quan lại.
Giá trị nghệ thuật: Đây là truyện ngắn viết theo kiểu hiện đại bằng chữ Quốc ngữ. Nhân vật đã bước đầu có tính nhữngh. Tác giả đã sử dụng biện pháp tương phản, tăng cấp, phối hợp với lời comment trực tiếp để tố cáo và phê phán. Nhân vật quan phụ mẫu đã bộc lộ thực chất xấu xa, vô trách rưới nhiệm qua những hành động, lời nói của y với tay chân và với người dân.
Luyện tập
Câu 1: Trang 83 sgk ngữ văn 7 tập 2
Đầy đủ những hình thức trừ độc thoại nội tâm
Câu 2: Trang 83 sgk ngữ văn 7 tập 2
Qua ngôn ngữ đối thoại của quan phủ, em thấy tính nhữngh của nhân vật đó ra sao? Hãy nêu nhận xét về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tính nhữngh nhân vật.
Bài làm:
Qua ngôn ngữ đối thoại của tên quan phủ, hoàn toàn có thể tháy hắn hiện lên với là một tên có tính nhữngh xấu xa, bỉ ổi. Đó là một tên quan vô trách rưới nhiệm, tham lam và tàn bạo. Quan hộ đê hay quan phụ mẫu có được coi như ba mẹ của dân, hắn ăn bổng lộc của triều đình để chăm sóc cuộc sống cho dân. Nhưng ngược lại, người đọc chỉ thấy phẫn nộ trước việc thờ ơ, lạnh lùng, thậm chí là vô nhân tính của viên quan ấy. Hắn đó là hình ảnh đại diện cho tầng lớp quan lại, tầng lớp thống trị của xã hội phong kiến thối nát lúc bấy giờ.
Từ đây cũng cần phải rút ra một nhận định rằng: trong tác phẩm tự sự ngôn ngữ có vai trò cực kì quan trọng trong việc thể hiện tính nhữngh của nhân vật. Bởi lẽ, một con người tốt bụng, nhân nhữngh cao quý có lại ăn nói cộc cằn, thô lỗ, vô trách rưới nhiệm như viên quan kia được. Cũng tương tự như như thế, chỉ qua những từ ngữ mà nhân vật nói, ta cũng hiểu được thực chất con người ấy là gì.
Mở rộng: Phát biểu cảm nghĩ của em về tình cảnh người nông dân trong truyện ngắn Sống chết mặc bay
Bài làm:
Trong đêm mưa gió tầm tã, nước sông dâng lên dữ tợn như cuốn trôi toàn bộ, những người nông dân vẫn phải dầm mưa, khẩn trương làm những công việc hộ đê. Họ dường như đã mệt, sức người chẳng thể địch lại sức trời, tình cảnh ngày càng trở thành nguy cấp. Vậy nhưng biết kêu ai, than ai? Bởi quan phụ mẫu ở nhữngh đó chẳng bao xa, nhưng ngài còn đang dở cuộc vui, chơi nốt ván tổ tôm với những vị quan khác. Người đứng đầu ấy chẳng mảy may lo cho dân cho nước mà còn đang bận hưởng thụ những thú vui bài bạc, ăn uống xa hoa. Tác giả đã diễn tả sự đối lập ngày càng tăng thêm làm nổi trội nỗi thống khổ của người nông dân: một bên là cảnh náo loạn, gấp gáp, khẩn trương còn ở trong đình làng là thú vui, thong dong, nhàn nhã. Và khi nỗi lo của người dân đã thành thực sự, đê vỡ, họ như vô vọng kêu cứu thì quan vẫn mắng và dọa sẽ bỏ tù. Nhà tù là nơi để giam giữ những kẻ hại dân nhưng ở đây là là giam giữ những kẻ cắt ngang cuộc vui của quan. Những người dân vô tội còn biết bám víu, trông cậy vào đâu. Truyện đã phê phán hiện thực xã hội phong kiến thối nát, quan lại mải mê ăn chơi sa đọa và đẩy người nông dân vào tình cảnh khốn cùng, đau thương và mất mát. Qua đó, ta thêm xót thương và cảm thông với cuộc sống lầm than cơ cực của người nông dân.

6
Bài soạn “Sống chết mặc bay” của Phạm Duy Tốn số 6
I. Tác giả, tác phẩm
1. Tác giả
Phạm Duy Tốn là nhà văn xã hội tiên phong của nền văn học mới Việt Nam hồi đầu thế kỷ 20. Trước khi trở thành một nhà văn, nhà báo, ông từng là thông ngôn ở tòa Thống sứ Bắc Kỳ. Truyện ngắn Sống chết mặc bay của ông được coi là truyện ngắn trước tiên theo lối Tây phương của văn học Việt Nam.
2. Tác phẩm
* Thể loại:
Văn bản Sống chết mặc bay thuộc thể loại truyện ngắn.
Ở Việt Nam, vào khoảng đầu thế kỉ XX, khái niệm truyện ngắn còn tương đối mới mẻ. Thời trung đại cũng đã có truyện hoặc những tác phẩm có tính chất tự sự nhưng không tồn tại tác phẩm nào thể hiện được những đặc trưng cơ bản của thể loại này.
Truyện ngắn thuộc loại hình tự sự, đặc trưng cơ bản nhất của nó là ngắn. Tuy nhiên, mức độ dài ngắn không hoàn toàn quyết định tính chất thể loại. Như trên đã nói, nhiều tác phẩm (có tính tự sự) thời trung đại nhưng không thể xếp vào loại truyện ngắn bởi ngoài tính chất về dung lượng, truyện ngắn còn có một số đặc trưng khác.
Khác với những truyện dài (ví dụ: tiểu thuyết) và truyện vừa thường tái hiện trọn vẹn cuộc đời một nhân vật, một sự kiện, hoàn cảnh,… truyện ngắn chỉ là một lát cắt, một khoảnh khắc, một hiện tượng nổi trội (cũng hoàn toàn có thể khác thường) của cuộc sống. Để đảm bảo với cùng 1 dung lượng nhỏ mà chuyển tải được những ý nghĩa sâu sắc lớn, ngôn ngữ truyện ngắn phải hàm súc đến mức tối đa. Các chi tiết “thừa” (đối với việc thể hiện nội dung cốt truyện), những chi tiết rườm rà đều bị lược bỏ để triệu tập vào những chi tiết chủ yếu nhất. Trong truyện ngắn, dường như hiện thực đời sống đã được “nén” chặt lại nhằm mục đích khắc hoạ nổi trội một hiện tượng, một nét thực chất trong quan hệ nhân sinh hay trong đời sống tâm hồn con người.
* Tóm tắt
Gần một giờ đêm, khi đó, trời mưa tầm tã, nước sông Nhị Hà lên cao, khúc đê làng X không thể chống cự và có nguy cơ sẽ vỡ. Hàng trăm, hàng nghìn người dân đang ra sức chống chọi với sức nước cuồn cuộn. Ấy vậy mà tại một ngôi đình trên một khúc đê gần đó, quan phụ mẫu vẫn ung dung ngồi đánh bài với những quan khác, vẫn thản nhiên quát mắng khi có người báo đê sắp vỡ. Cuối cùng, khi quan ù ván bài thật to cũng là lúc đê bị vỡ, nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má, rau màu ngập chìm trong biển nước, người sống không tồn tại chỗ ở, người chết không tồn tại chỗ chôn.
II. Hướng dẫn soạn bài
Câu 1:
Văn bản Sống chết mặc bay hoàn toàn có thể được chia làm 3 đoạn:
Đoạn 1: từ đầu =vàgt; “khúc đê này hỏng mất” : nguy cơ đê bị vỡ và sự chống đỡ của người dân.
Đoạn 2: tiếp =vàgt; “Điếu, mày!” : sự thờ ơ, vô trách rưới nhiệm, mải mê bài bạc của quan phụ mẫu trước nguy cơ đê vỡ.
Đoạn 3: sót lại : Đê vỡ, nhân dân rơi vào cảnh lầm than.
Câu 2:
Phép tương phản (đối lập) trong nghệ thuật là việc tạo ra những hành động, những cảnh tượng, những tính nhữngh trái ngược nhau để qua đó làm nổi trội một ý tưởng bộ phận trong tác phẩm hoặc tư tưởng chính của tác phẩm.
a) Hai mặt tương phản cơ bản trong truyện Sống chết mặc bay:
Một bên là cảnh nhân dân đang vật lộn, chống chọi hết sức căng thẳng, vất vả với mưa gió, bão lũ.
Một bên là viên quan đi hộ đê và lại ngồi trong chỗ an toàn, nhàn nhã, mải mê bài bạc, coi việc đánh bài là trên hết, mặc dân sống chết, mặc đê vỡ.
b) Phân tích, làm rõ từng mặt trong sự tương phản:
Dân hộ đê: gần một giờ đêm, trời mưa tầm tã, nước dâng cao, một cảnh tượng hết sức nguy kịch, người thì đã kiệt sức mà mưa thì vẫn trút xuống, sức đê đã dần yếu hơn sức nước.
Quan phủ nha ung dung bài bạc: trong đình cao ráo, an toàn, vững chãi, không khí tĩnh mịch, trang nghiêm, đường bệ, nguy nga, đang say sưa trong cuộc vui tổ tôm.
c) Qua hai mặt tương phản, hình ảnh tên quan phủ đi “hộ đê” được tác giả khắc họa:
Ngồi ở nơi an toàn, đẹp đẽ, lại có người hầu bài
Được dùng toàn đồ ngon, vật lạ
Tư thế thì đường bệ, ung dung, nhàn nhã như không tồn tại chuyện gì xảy ra
Không màng đến chuyện đê vỡ, thậm chí còn khó chịu, mắng mỏ khi có người thông báo đê sắp vỡ.
Khi quan vui mừng ù ván bài thì cũng là lúc nhân dân rơi vào cảnh thảm sầu.
d) Dụng ý của tác giả trong việc dựng cảnh tương phản này là để so sánh, làm nổi trội sự đối lập. Người phải có trách rưới nhiệm thì lại vô trách rưới nhiệm, mải mê bài bạc. Người dân thì phải đội mưa gió để chống chọi với thiên nhiên trong vô vọng. Cuối cùng, chính sự vô trách rưới nhiệm của viên quan đã dẫn đến cảnh đê vỡ. Quan thì vui mừng vì ù ván bài lớn, người dân thì khổ cực vì nước lụt.
Câu 3:
Trong nghệ thuật văn chương còn có phép tăng cấp (lần lượt đưa thêm chi tiết và chi tiết sau phải cao hơn chi tiết trước), qua đó làm rõ thêm thực chất một sự việc, một hiện tượng muốn nói. Trong Sống chết mặc bay, tác giả đã phối hợp khéo léo phép tương phản và phép tăng cấp để bộc lộ rõ nét tính nhữngh của nhân vật.
a) Sự tăng cấp trong việc mô tả mức độ của trời mưa, của độ nước sông dâng cao, của nguy cơ vỡ đê, của cảnh hộ đê vất vả, căng thẳng của người dân (trong đó có mức độ của tiếng trống đánh, ốc thổi, tiếng người gọi nhau sang hộ đê) là:
Mưa mỗi lúc một nhiều
Mực nước mỗi lúc càng cao
Âm thanh mỗi lúc một ầm ĩ
Sức người mỗi lúc một yếu
Nguy cơ vỡ đê mỗi lúc một đến gần
b) Sự tăng cấp trong việc mô tả mức độ đam mê bài bạc của tên quan phủ là:
Mê bài bạc đến vứt bỏ trách rưới nhiệm
Bên ngoài thì ầm ĩ mà vẫn điềm nhiên, nhàn nhã
Sung sướng cực độ ù ván bài to trong những lúc phía bên dưới đê đã vỡ
c) Tác dụng của sự phối hợp hai nghệ thuật tương phản và tăng cấp trong việc vạch trần thực chất “lòng lang dạ thú” của tên quan phủ trước sinh mạng của người dân:
Sự phối hợp này đã tố cáo, phê phán hành động ham mê bài bạc và vô trách rưới nhiệm của tên viên quan, y ích kỉ, nhẫn tâm đến mất hết nhân tính.
Câu 4:
* Giá trị hiện thực: Phản ánh sự đối lập hoàn toàn giữa cuộc sống của nhân dân với cuộc sống của bọn quan lại, đồng thời, phê phán thói vô trách rưới nhiệm của kẻ đứng đầu trước sinh mạng của người dân.
* Giá trị nhân đạo: Thể hiện niềm cảm thương sâu sắc của tác giả trước cuộc sống lầm than, cơ cực của người dân do thiên tai và do thái độ vô trách rưới nhiệm của bọn cầm quyền lúc bấy giờ.
* Giá trị nghệ thuật: Tác giả đã vận dụng thành công sự phối hợp hai phép nghệ thuật tương phản và tăng cấp. Lời văn sinh động, giàu cảm xúc, mô tả nhân vật sắc nét.
Phần luyện tập
Câu 1:
Tất cả những hình thức trong bảng đều có trong sống chết mặc bay
Câu 2:
Qua ngôn ngữ đối thoại của tên quan phủ, hoàn toàn có thể thấy hắn hiện lên với là một tên có tính nhữngh xấu xa, bỉ ổi, vô trách rưới nghiệm, tham lam và tàn bạo
Nhận xét: Trong tác phẩm tự sự ngôn ngữ có vai trò cực kì quan trọng trong việc thể hiện tính nhữngh của nhân vật. Bởi lẽ, một con người tốt bụng, nhân nhữngh cao quý có lại ăn nói cộc cằn, thô lỗ, vô trách rưới nhiệm như viên quan kia được.

Từ khóa: Top 6 Bài soạn “Sống chết mặc bay” của Phạm Duy Tốn lớp 7 hay nhất, Top 6 Bài soạn “Sống chết mặc bay” của Phạm Duy Tốn lớp 7 hay nhất, Top 6 Bài soạn “Sống chết mặc bay” của Phạm Duy Tốn lớp 7 hay nhất
LADIGI – Công ty dịch vụ SEO giá rẻ, SEO từ khóa, SEO tổng thể, SEO web site cam kết lên Top Google uy tín chuyên nghiệp, an toàn, tác dụng.
Nguồn: toplistUSD
100 lần tự tìm hiểu cũng không bằng 1 lần được tư vấn