Bạn đang tìm hiểu về Trong 3 Kĩ Năng Phím F Của Cuồng Long, Kĩ Năng Nào Được Ưu Tiên Hàng Đầu?, hôm nay mình sẽ chia sẻ đến bạn bài viết Top 20+ Trong 3 Kĩ Năng Phím F Của Cuồng Long, Kĩ Năng Nào Được Ưu Tiên Hàng Đầu? được team mình tổng hợp và biên tập từ nhiều nguồn trên internet. Hy vòng bài viết về chủ đề Trong 3 Kĩ Năng Phím F Của Cuồng Long, Kĩ Năng Nào Được Ưu Tiên Hàng Đầu? hữu ích với bạn.
Bill Clinton – Wikipedia tiếng Việt
Bài viết hoặc đoạn này cần nhiều chú thích hoàn chỉnh hơn để có thể kiểm chứng được. Vui lòng giúp cải thiện bài viết bằng cách bổ sung thêm nguồn dẫn chứng hoặc thông tin còn thiếu trong các chú thích để có thể xác định rõ ràng các nguồn. Chú thích phải bao gồm tiêu đề, xuất bản, tác giả, ngày tháng và (các) số trang (đối với tài liệu được phân trang). Chú thích có nguồn gốc không phù hợp có thể bị đặt nghi vấn và xóa.
Bill ClintonTổng thống thứ 42 của Hoa KỳNhiệm kỳ20 tháng 1 năm 1993 – 20 tháng 1 năm 20018 năm, 0 ngàyPhó Tổng thốngAl GoreTiền nhiệmGeorge H. W. BushKế nhiệmGeorge W. BushThống đốc thứ 40 và 42 của ArkansasNhiệm kỳ11 tháng 1 năm 1983 – 12 tháng 12 năm 19929 năm, 336 ngàyPhó Thống đốcWinston BryantJim Guy TuckerTiền nhiệmFrank D. WhiteKế nhiệmJim Guy TuckerNhiệm kỳ9 tháng 1 năm 1979 – 19 tháng 1 năm 19812 năm, 10 ngàyPhó Thống đốcJoe PurcellTiền nhiệmJoe Purcell (Quyền)Kế nhiệmFrank D. WhiteBộ trưởng Tư pháp ArkansasNhiệm kỳ3 tháng 1 năm 1977 – 9 tháng 1 năm 19792 năm, 6 ngàyThống đốcDavid PryorJoe Purcell (Quyền)Tiền nhiệmJim Guy TuckerKế nhiệmSteve Clark
Thông tin cá nhânSinhWilliam Jefferson Blythe III19 tháng 8, 1946 (76 tuổi)Hope, Arkansas, Hoa KỳĐảng chính trịĐảng Dân chủPhối ngẫuHillary Rodham (cưới 1975)Con cáiChelsea ClintonCha mẹWilliam Jefferson Blythe Jr.Virginia CassidyGiáo dụcĐại học Georgetown (Trường Dịch vụ Đối ngoại) Đại học Oxford (Trường University College)Đại học Yale (Trường Luật)Chữ ký
William Jefferson Clinton (tên khai sinh là William Jefferson Blythe III) sinh ngày 19 tháng 8 năm 1946,[1] là Tổng thống thứ 42 của Hoa Kỳ từ năm 1993 đến năm 2001. Trước khi vào Nhà Trắng, Clinton đã phục vụ hai nhiệm kỳ thống đốc tiểu bang Arkansas.
Clinton được xem là thuộc cánh Tân Dân chủ có khuynh hướng trung dung trong Đảng Dân chủ. Có nhiều nhãn hiệu được gán cho ông như “ôn hòa” hoặc “trung dung”, nhưng chính xác hơn, có lẽ ông nên được xem là người của quần chúng (populist). Suốt trong nhiệm kỳ của mình, ưu tiên hàng đầu của tổng thống trong các vấn đề trong nước là thúc đẩy thông qua các đạo luật nâng cấp giáo dục, hạn chế bán súng ngắn, củng cố các quy định về môi trường và bảo vệ việc làm cho các cá nhân cần nghỉ hộ sản hoặc nghỉ bệnh. Trên trường quốc tế, ông thiết lập ưu tiên cho nỗ lực giảm thiểu hàng rào mậu dịch giữa các quốc gia, và làm trung gian hòa giải cho các cuộc tranh chấp tại Bắc Ireland và Trung Đông (giữa Israel và Palestine). Nhằm tìm kiếm sự ủng hộ từ giới bảo thủ, Clinton đưa vào danh mục các ưu tiên cuộc chiến chống ma tuý và án tử hình. Năm 1996, chính phủ Clinton một mình phủ quyết việc tái bổ nhiệm tổng thư ký Liên hiệp quốc Boutros Boutros-Ghali.
Là tổng thống trẻ tuổi thứ ba trong lịch sử Hoa Kỳ và là người đầu tiên thuộc thế hệ Baby Boomer (sinh trong thời gian 1946–1964),[2] nhiệm kỳ tổng thống của Clinton đánh dấu sự chuyển giao quyền lực từ thế hệ các tổng thống tiền nhiệm là cựu binh Chiến tranh thế giới thứ hai, và là những người chứng kiến sự khởi đầu của cuộc Chiến tranh Lạnh trong thập niên 1950.
Nhiệm kỳ của Clinton cũng được đánh dấu bởi mối quan hệ thù địch với Đảng Cộng hòa đang kiểm soát Quốc hội. Ông cũng là mục tiêu của một loạt các cuộc điều tra tiến hành bởi công tố viên độc lập được bổ nhiệm bởi quốc hội, như vụ Whitewater, khi một vài phụ tá của ông bị truy tố về những tội danh mà gia đình Clinton không dính líu, Clinton cũng được tuyên bố vô tội trong vụ tai tiếng Whitewater. Ông là người thứ hai trong số các tổng thống Hoa kỳ bị đem ra luận tội về các tội danh man khai và ngăn cản công lý trước một đại bồi thẩm đoàn do cung cách hành xử của ông trong mối quan hệ tình cảm với Monica Lewinsky. Vụ bê bối về tình cảm này của ông đã bị Kenneth Starr – một công tố viên độc lập phanh phui, nhưng cuối cùng ông được tha bổng bởi Thượng viện.
Một trong những đặc điểm nổi trội nhất trong giai đoạn cầm quyền của Clinton là thời kỳ bùng nổ kinh tế lâu dài nhất trong lịch sử Hoa Kỳ, có lẽ được cấu thành bởi các nhân tố như cơn sốt tăng giá tại thị trường chứng khoán, chiến dịch gìn giữ hòa bình của NATO trong cuộc chiến Kosovo, và sự chuyển đổi ngoạn mục từ mức thâm hụt ngân sách khoảng 250 tỷ đô la vào lúc bắt đầu nhiệm kỳ tổng thống, trở nên thặng dư ngân sách vào khoảng 523 tỷ vào cuối nhiệm kỳ của ông.
Thời thơ ấu[sửa | sửa mã nguồn]
Bill Clinton khi còn là một cậu bé.
Clinton chào đời với tên William Jefferson Blythe III tại Hope, tiểu bang Arkansas [3] và lớn lên tại Hot Spring, Arkansas. Clinton được đặt tên theo tên cha, William Jefferson Blythe Jr., một người chào hàng lưu động, qua đời trong một tai nạn xe hơi tại hạt Scott, tiểu bang Missouri, ba tháng trước khi con trai của ông chào đời. Mẹ ông, Virginia Dell Cassidy, tái hôn vào năm 1950 với Roger Clinton. Billy được nuôi dưỡng bởi mẹ và cha kế, sử dụng họ Clinton cho mình suốt những năm tiểu học, nhưng không chịu chính thức đổi họ cho đến năm 14 tuổi. Cậu bé lớn lên trong một gia đình truyền thống, nhưng cha kế của cậu, nghiện cả rượu và cờ bạc, thường ngược đãi mẹ cậu, và đôi khi, cả người em cùng mẹ khác cha với cậu, Roger Clinton, Jr..[4][5]
Năm 1963, xảy ra hai sự kiện khiến Clinton quyết định trở thành người của công chúng. Đó là khi cậu được chọn vào đoàn học sinh trung học đến thăm Nhà Trắng và gặp Tổng thống John F. Kennedy. Sự kiện thứ hai là khi cậu nghe bài diễn văn “Tôi có một giấc mơ” của Martin Luther King, Jr. đọc trong cuộc Tuần hành vì Tự do và Việc làm tại Washington, D.C..
Tiểu bang Arkansas[sửa | sửa mã nguồn]
Clinton theo học tại trường ngoại giao Edmund A. Walsh thuộc Đại học Georgetown tại Washington, D.C., tại đây Clinton làm việc cho thượng nghị sĩ J. William Fulbright, rồi giành được học bổng Rhodes để theo học tại Đại học Oxford. Trở về từ Oxford, Clinton đến học tại trường luật thuộc Đại học Yale, nơi ông gặp người bạn cùng lớp và sau này là vợ của ông, Hillary Rodham.
Sau khi tốt nghiệp từ Yale, Clinton về dạy môn luật tại Đại học Arkansas. Trong thời gian này, ông ra tranh cử dân biểu năm 1974, đối đầu với John Paul Hammerschmidt, một dân biểu đương nhiệm, và thất cử. Năm 1976, ông được bầu làm bộ trưởng tư pháp tiểu bang Arkansas; hai năm sau, năm 1978, ông đắc cử thống đốc tiểu bang Arkansas, trở thành thống đốc tiểu bang trẻ tuổi nhất vào lúc ấy, và là người trẻ tuổi nhất từng được bầu vào chức vụ thống đốc kể từ năm 1938. Nhiệm kỳ đầu của ông sa lầy trong nhiều khó khăn như kế hoạch thuế đánh trên xe hơi rất mất lòng dân, và sự phẫn nộ của công luận về vụ đào thoát vào năm 1980 của các tù nhân Cuba (là các thuyền nhân đến nước Mỹ trong đợt Mariel boatlift) bị giam giữ tại nhà tù Fort Chafee. Thêm vào đó, quyết định của Hillary Rodham duy trì họ của bà khi đang là Phu nhân Thống đốc một bang có truyền thống bảo thủ như Arkansas đã gây ra nhiều bực tức ở đây. Cuối cùng, Hillary cũng chấp nhận họ của chồng và vai trò truyền thống làm vợ của một chính trị gia, trong khi lặng lẽ gây dựng cho mình sức mạnh chính trị qua kỹ năng của một luật sư.
Bill Clinton gặp Tổng thống Jimmy Carter năm 1978
Hết nhiệm kỳ đầu, Clinton bị đánh bại bởi một đối thủ thuộc Đảng Cộng hòa, Frank D. White, vào năm 1980; và theo cách nói đùa của ông, trở thành cựu thống đốc trẻ tuổi nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Trong kỳ tuyển cử kế tiếp vào năm 1982, ông đắc cử và đảm nhiệm chức vụ thống đốc trong bốn nhiệm kỳ liên tiếp cho đến năm 1992, khi ông trở thành ông chủ Nhà Trắng. Năm 1984, Clinton đã gặt hái thành công khi cố tu chính để thay đổi nhiệm kỳ thống đốc từ 2 năm trở thành 4 năm.
Thái độ thân thiện với giới doanh nghiệp làm giảm thiểu các chỉ trích từ phe bảo thủ trong suốt nhiệm kỳ này của Clinton, nhưng một vài giao dịch của ông trong giai đoạn này dẫn đến cuộc điều tra Whitewater, theo đuổi ông trong suốt nhiệm kỳ tổng thống sau này.
Tổng thống Hoa Kỳ[sửa | sửa mã nguồn]
Clinton xuất hiện lần đầu trên sân khấu chính trị quốc gia khi đăng đàn diễn thuyết tại đại hội Đảng Dân chủ năm 1988, giới thiệu ứng cử viên Michael Dukakis. Bài diễn văn là một thất bại thảm hại khi ông nói dông dài đến nửa giờ thay vì giới hạn trong 15 phút cho phép.
Bốn năm sau, Clinton chuẩn bị tranh cử chống lại tổng thống đương nhiệm George H. W. Bush. Sau cuộc Chiến tranh Vùng Vịnh, Bush được xem như bất khả chiến bại. Đặt mình vào vị trí của một người đơn độc thích nói thẳng, Clinton khéo léo giành được sự đề cử của Đảng Dân chủ.
Ngày 9 tháng 7 năm 1992, Clinton chọn thượng nghị sĩ Albert A. Gore, Jr. (Dân chủ – Tennessee) là người đứng cùng liên danh với mình. Lúc đầu, sự chọn lựa này bị chỉ trích bởi nhiều nhà chiến lược với lý do Gore đến từ tiểu bang Tennessee kề cận với tiểu bang quê hương của Clinton. Nay nhìn lại, nhiều người nhận thấy Gore là nhân tố hữu dụng dẫn đến sự thành công của chiến dịch tranh cử năm 1992.
Trong suốt chiến dịch, các đối thủ của Clinton nêu lên nhiều điểm yếu của ông như việc trốn quân dịch trong Chiến tranh Việt Nam, cung cách ông giải thích về việc sử dụng cần sa trước đây, theo lời miêu tả của ông, “hút nhưng không hít”, cùng với những cáo buộc về tính trăng hoa và một số giao dịch mờ ám. Dù những cáo buộc này không ngăn được Clinton bước chân vào Nhà Trắng, chúng đã khuấy động được sự chống đối mạnh mẽ từ những người bảo thủ ngay từ những ngày đầu tiên của nhiệm kỳ tổng thống.
Nhờ chọn lựa chiến lược thích hợp cho chiến dịch tranh cử, tập chú vào các vấn đề trong nước, đặc biệt là tình trạng suy thoái kinh tế trong giai đoạn ngay trước cuộc tuyển cử năm 1992, Clinton trở thành người chiến thắng với 42,9% số phiếu bầu; George H. W. Bush giành được 37,4%, và ứng cử viên độc lập H. Ross Perot được 18,9%.
Bill Clinton đọc Thông điệp Liên bang năm 1997, phía sau là Al Gore và Newt Gingrich
Kể từ Franklin D. Roosevelt, Clinton là tổng thống đầu tiên thuộc Đảng Dân chủ phục vụ đủ hai nhiệm kỳ, mặc dù ông cũng là tổng thống đầu tiên kể từ John F. Kennedy không giành được đa số phiếu phổ thông, vì bị chia phiếu bởi ứng cử viên đảng thứ ba. Chiến thắng của Clinton chấm dứt thời kỳ thống trị của Đảng Cộng hòa nắm giữ chức vụ tổng thống trong 12 năm liên tiếp, và trong suốt 20 năm trong số 24 năm trước đó. Chiến thắng này cũng trao quyền kiểm soát cho Đảng Dân chủ tại các nhánh của Chính phủ liên bang, bao gồm hai viện quốc hội và chức vụ tổng thống, lần đầu tiên kể từ chính phủ của tổng thống Dân chủ sau cùng, Jimmy Carter.
Đề án quan trọng nhất trong nghị trình lập pháp của Clinton là kế hoạch cải cách hệ thống chăm sóc sức khỏe, thực hiện bởi Hillary Clinton, nhắm vào mục đích thiết lập một hệ thống chăm sóc sức khoẻ cho toàn dân. Dù được chào đón vào lúc đầu, cuối cùng kế hoạch này bị sụp đổ khi gặp sự chống đối có tổ chức từ những người bảo thủ và từ ngành công nghiệp bảo hiểm; họ thuyết phục người dân Mỹ hãy đọc kỹ từng chi tiết của kế hoạch. Đây là thất bại quan trọng đầu tiên của chính phủ Clinton.
Sau hai năm cầm quyền dưới sự lãnh đạo của Clinton, Đảng Dân chủ thất bại thảm hại trong cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ năm 1994. Họ mất quyền kiểm soát tại hai viện quốc hội lần đầu tiên trong suốt 40 năm, phần lớn là do những dự luật đang bị cầm giữ tại quốc hội như việc không thể xây dựng một hệ thống chăm sóc sức khỏe phổ thông trong khuôn khổ của kế hoạch được thiết lập bởi Đệ Nhất Phu nhân Hillary Rodham Clinton.
Sau cuộc tuyển cử năm 1994, sự quan tâm của công luận chuyển sang sáng kiến Khế ước với nước Mỹ (Contract with America) đang được đẩy mạnh bởi Chủ tịch Hạ viện Newt Gingrich. Với quốc hội đang ở trong tay của Đảng Cộng hòa, Clinton phải chống đỡ dữ dội để bảo vệ ngân sách, dẫn đến sự tê liệt của chính quyền, vì chính phủ Clinton và quốc hội không đồng ý được với nhau về một biện pháp thoả hiệp.
Trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1996, Clinton tái đắc cử với 49,2% số phiếu phổ thông, ứng viên Đảng Cộng hòa Bob Dole nhận được 40,7% và ứng viên Đảng Cải cách Ross Perot 8,4%, trong khi Đảng Cộng hòa vẫn duy trì quyền kiểm soát quốc hội dù mất một ít ghế.
Clinton xây dựng mối quan hệ công việc thân thiết với Tony Blair, thủ tướng Anh, khi Blair đắc cử năm 1997.
Năm 1999, qua những nỗ lực của Clinton, Hoa Kỳ có được thặng dư ngân sách liên bang lần đầu tiên kể từ năm 1969.
Clinton quan tâm đến các cuộc bạo động xảy ra tại Bắc Ireland; ba lần trong nhiệm kỳ tổng thống, ông đến thăm Bắc Ireland nhằm cổ vũ cho hòa bình tại vùng đất này. Sự can thiệp của ông giúp thúc đẩy tiến trình giải giới PIRA bắt đầu từ ngày 23 tháng 10 năm 2001.
Năm 2002, một mẫu tin của UPI trình bày những tư liệu được tìm thấy tại Afghanistan cho thấy al-Qaeda đang âm mưu hạ sát Clinton vào lúc cuối nhiệm kỳ của ông.
Bổ nhiệm[sửa | sửa mã nguồn] Nội các[sửa | sửa mã nguồn]
CHỨC VỤ
TÊN
NHIỆM KỲ
Tổng thống
Bill Clinton
1993–2001
Phó Tổng thống
Al Gore
1993–2001
Bộ trưởng Ngoai giao
Warren M. Christopher
1993–1997
Madeleine K. Albright
1997–2001
Bộ trưởng Ngân khố
Lloyd Bentsen
1993–1994
Robert E. Rubin
1995–1999
Lawrence H. Summers
1999–2001
Bộ trưởng Quốc phòng
Les Aspin
1993–1994
William J. Perry
1994–1997
William S. Cohen
1997–2001
Bộ trưởng Tư pháp
Janet Reno
1993–2001
Bruce Babbitt
1993–2001
Bộ trưởng Nông nghiệp
Mike Espy
1993–1994
Daniel R. Glickman
1994–2001
Bộ trưởng Thương mại
Ronald H. Brown
1993–1996
Mickey Kantor
1996–1997
William M. Daley
1997–2000
Norman Y. Mineta
2000–2001
Bộ trưởng Lao động
Robert B. Reich
1993–1997
Alexis M. Herman
1997–2001
Bộ trưởng Y tế
Donna E. Shalala
1993–2001
Bộ trưởng Giáo dục
Richard Riley
1993–2001
Bộ trưởng Gia cư và Phát triền đô thị
Henry G. Cisneros
1993–1997
Andrew Cuomo
1997–2001
Bộ trưởng Giao thông
Federico F. Peña
1993–1997
Rodney E. Slater
1997–2001
Bộ trưởng Công nghiệp và Năng lượng
Hazel O’Leary
1993–1997
Federico F. Peña
1997–1998
Bill Richardson
1998–2001
Bộ trưởng Cựu chiến binh
Jesse Brown
1993–1997
Togo D. West, Jr.
1997–2000
Hershel W. Gober
2000–2001
Tối cao Pháp viện[sửa | sửa mã nguồn] Clinton bổ nhiệm hai thẩm phán cho Tối cao Pháp viện
Ruth Bader Ginsburg – 1993
Stephen Breyer – 1994
Kinh tế[sửa | sửa mã nguồn]
Trong hai nhiệm kỳ tổng thống của Clinton, người dân Mỹ hưởng một sự phát triển liên tục về kinh tế, số người thất nghiệp sụt giảm, tài sản gia tăng qua sự tăng giá ào ạt tại thị trường chứng khoán. Mặc dù còn nhiều tranh cãi về nguyên nhân của sự phát triển kinh tế, Clinton có thể tự hào về một số thành tựu sau:
Hơn 22 triệu chỗ làm mới
Số người sở hữu nhà tăng từ 64,0% lên đến 67.5%
Mức thất nghiệp thấp nhất trong 30 năm
Lợi tức được nâng cao tại mọi mức độ
Mức thâm hụt ngân sách cao nhất trong lịch sử Mỹ được đảo ngược để trở nên mức thặng dư cao nhất vượt qua con số 200 tỷ đô la
Chi tiêu của chính quyền thấp nhất tính theo tỷ lệ với GDP kể từ năm 1974
Số gia đình sở hữu chứng khoán nhiều nhất
Nguyên nhân của sự tăng trưởng vẫn còn đang tranh cãi, nhưng nhiều người cho rằng nhờ kế hoạch tăng thuế vào năm 1993 kéo mức thâm thủng xuống thấp, dẫn đến việc hạ lãi suất, nhờ vậy mà kích cầu và làm gia tăng mức tiêu dùng. Cần biết rằng Chủ tịch Quỹ dự trữ liên bang Alan Greenspan ủng hộ kế hoạch này, trong khi những người chỉ trích Clinton cho rằng sự tăng trưởng là thành quả đến từ Alan Greenspan, chương trình cắt giảm chi tiêu của quốc hội năm 1995 (dưới quyền kiểm soát của Đảng Cộng hòa), những đề xuất của “Hợp đồng với nước Mỹ” và ngay cả kế hoạch giảm thuế của chính phủ Ronald Reagan năm 1980.
Đối ngoại[sửa | sửa mã nguồn]
Gặp Tổng thống Pháp Jacques Chirac, 17 tháng 6 năm 1999
Bill Clinton và Boris Yeltsin, 18 tháng 11 năm 1999
Vài lần Clinton đã gởi quân đến những vùng đất thù nghịch. Năm 1993, quân đội Hoa Kỳ chiến đấu tại Mogadishu để cố bắt giữ lãnh chúa Mohamed Farah Aidid tại Somalia. Năm 1994, Clinton gởi quân đến Haiti để phục hồi chế độ Jean-Bertrand Aristide, chấm dứt một thời kỳ bạo loạn. Aristide đắc cử tổng thống, nhưng bảy tháng sau lại bị lật đổ trong một cuộc đảo chính vào năm 1997. Quân đội Hoa Kỳ cũng hai lần có mặt tại Kosovo để ngăn chặn những cuộc bạo động giữa các sắc tộc. Thêm vào đó, Clinton đã cho quân đội đột kích vào Iraq vài lần với mục đích trừng phạt chính quyền Saddam Hussein vì vi phạm lệnh cấm vận của Liên Hợp Quốc và vì âm mưu ám sát cựu tổng thống George H. W. Bush. Tuy nhiên, vì bị ám ảnh bởi sự thất bại và sỉ nhục tại Somalia, Clinton từ chối can thiệp vào Rwanda, lúc đó đang đẫm máu vì những cuộc tàn sát diệt chủng.
Vào tháng 1 năm 1994, chính phủ Clinton gỡ bỏ lệnh cấm vận kinh tế và thương mại đối với Việt Nam; tháng 5 năm 1994, hai bên tuyên bố thiết lập văn phòng liên lạc tại Hà Nội và Washington, D.C.. Mười lăm tháng sau, ngày 15 tháng 7 năm 1995, Clinton tuyên bố thiết lập bang giao đầy đủ với Việt Nam.
Clinton thăm Hà Nội năm 2000
Clinton thăm trẻ em ở Việt Nam năm 2000
Ngày 17 tháng 11 năm 2000, Bill Clinton, cùng với vợ và con gái, Hillary và Chelsea Clinton, bắt đầu chuyến viếng thăm Việt Nam kéo dài bốn ngày. Clinton là tổng thống Hoa Kỳ đầu tiên đến thăm đất nước “hình chữ S” kể từ lúc chấm dứt cuộc chiến Việt Nam 25 năm trước.
Sau khi rời Nhà Trắng, Clinton cho rằng thành quả ngoại giao lớn nhất của ông là dàn xếp những cuộc đàm phán hòa bình giữa Israel và Palestine, dẫn đến Thoả ước Oslo. Theo Clinton, thất bại lớn nhất trong chính sách đối ngoại của ông là không chịu làm gì khi cuộc bạo động diệt chủng xảy ra tại Rwanda năm 1994. Cùng với Liên hiệp quốc, chính phủ Clinton lúc ban đầu không chịu thừa nhận là cuộc diệt chủng đang xảy ra.
Luận tội[sửa | sửa mã nguồn] Clinton, với tư cách là Tổng thống Hoa Kỳ, bị đem ra luận tội ngày 19 tháng 12 năm 1998 bởi Hạ viện. Các cáo buộc là man khai và ngăn cản công lý. Thượng viện tha bổng Clinton vào ngày 12 tháng 2 năm 1999. Một ngày trước khi rời chức vụ, Clinton đồng ý chịu đình chỉ 5 năm giấy phép hành nghề luật tiểu bang Arkansas, như là một phần trong một thoả thuận với công tố viên độc lập nhằm chấm dứt cuộc điều tra. Dựa vào sự đình chỉ này, Clinton đương nhiên bị đình chỉ tại luật sư đoàn toà án tối cao, lần này Clinton quyết định xin rút khỏi luật sư đoàn mặc dù trong thực tế ông chưa bao giờ hành nghề luật tại toà tối cao, cũng không dự tính làm công việc này trong tương lai.
Bắt tay Chủ tịch Giang Trạch Dân, 11 tháng 9 năm 1999
Ngoài chuyện bị luận tội, Nhà Trắng dưới thời Clinton còn là mục tiêu trong nhiều vụ tai tiếng khác. “Travelgate” liên quan đến vụ sa thải các nhân viên văn phòng du lịch tại Nhà Trắng. “Tập tingate” liên quan đến cung cách Nhà Trắng xử lý hàng trăm hồ sơ nhân viên mà không xin phép họ. “Chinagate” dính líu đến các đảng viên Dân chủ nhận những khoản đóng góp bất hợp pháp cho chiến dịch tranh cử; người ta cho rằng số tiền này đến từ chính quyền Trung Quốc. “Pardongate” là chuyện ân xá cho các thành viên của FALN (một tổ chức khủng bố) vào năm 1999, lệnh ân xá cho Marc Rich và những người khác vào ngày cuối cùng của nhiệm kỳ tổng thống năm 2001.
Tháng 3 năm 1998, Kathleen Willey, một nhân viên Nhà Trắng, cáo buộc Clinton về tội cưỡng bức tình dục. Cũng trong năm 1998, Juanita Broaddrick nói rằng đã bị Clinton cưỡng bức vào năm 1978.
Uy tín[sửa | sửa mã nguồn]
Là tổng thống đầu tiên thuộc thế hệ Baby Boomer, Clinton được xem là dấu mốc của sự chuyển đổi từ các tổng thống thuộc thế hệ Chiến tranh thế giới thứ hai. Với kỹ năng cao trong thuật dụng ngữ nhằm nhấn mạnh vào trọng tâm của chủ đề khi đối thoại, và đi tiên phong trong việc du nhập văn hoá bình dân vào các chiến dịch tranh cử của mình, Clinton thường được miêu tả, một cách tiêu cực, là “tổng thống MTV”. Bất kể những chỉ trích cho rằng sức thu hút của ông đối với giới trẻ là thiếu nền tảng, Clinton giành được đa số phiếu của cử tri thuộc thế hệ trẻ trong cuộc tuyển cử năm 1992.
Clinton rất được yêu thích trong cộng đồng người Mỹ gốc Phi, ông cũng xem việc cải thiện các quan hệ chủng tộc là chủ đề chính cho nhiệm kỳ tổng thống của mình. Nhà văn Toni Morrison gọi Clinton là “tổng thống da đen đầu tiên”, giải thích rằng “xuất thân của Clinton phô bày mọi đặc điểm của một người da đen tiêu biểu: một cậu bé Arkansas sống trong một gia đình thiếu cha hoặc mẹ, luôn túng thiếu, lao động chân tay, chơi kèn saxophone, thích thức ăn McDonald”.
Ảnh hưởng lớn của Hillary Clinton trong chính phủ dẫn đến nhiều chỉ trích nhất nhắm vào một Đệ Nhất Phu nhân kể từ Eleanor Roosevelt. Nhiều người xem Bill và Hillary Clinton là cặp bài trùng chưa từng có trên chính trường nước Mỹ, trong khi nhiều người khác cho rằng chính Hillary, chứ không phải Clinton, là sức mạnh chủ đạo đằng sau bộ máy cầm quyền.
Monica Lewinsky
Sự kiện Clinton từng thử cần sa – được bào chữa cách vụng về là “hút chứ không hít” – làm hoen ố hình ảnh của ông đối với một số cử tri. Clinton ủng hộ án tử hình, giới nghiêm, đồng phục trong trường công, và một số biện pháp khác đi ngược lại quan điểm của những người ủng hộ quyền của giới trẻ, ông cũng đẩy mạnh cuộc chiến chống ma túy.
Từ khi bắt đầu chiến dịch tranh cử tổng thống năm 1992, đã có nhiều lời đồn đại về vụ ngoại tình của Clinton. Tuy nhiên, điều này được công luận quan tâm khi Paula Jones cáo buộc ông về hành vi quấy rối tình dục. Tiếp bước Paula Jones là Gennifer Flower và Kathleen Willey với những cáo buộc tương tự.
Cuộc sống tình dục của Clinton đã trở thành tâm điểm của công luận vào tháng 1 năm 1998 khi những lời tự sự của Monica Lewinsky, bị ghi âm bí mật bởi Linda Tripp, nói về những kinh nghiệm kích thích dương vật bằng miệng thực hành với Clinton được đưa ra công luận.
Di sản[sửa | sửa mã nguồn]
Gia đình Clinton
Những năm cầm quyền của Clinton là giai đoạn phát triển kinh tế lâu dài nhất trong lịch sử hiện đại của Mỹ.
Cùng với Hội đồng lãnh đạo Đảng Dân chủ, Clinton dẫn dắt Đảng Dân chủ tách rời khỏi khuynh hướng thiên tả, hướng về chủ trương trung dung ôn hòa. Suốt trong thập niên 1990, Đảng Dân chủ bị cáo buộc là bỏ rơi các thành trì truyền thống của họ (nghiệp đoàn, giới lao động, các nhóm thiểu số) để chấp nhận khuynh hướng trung hữu, hầu có thể có được những khoản đóng góp từ các tập đoàn và từ những bà mẹ mẫu mực (soccer mom).
Trong mắt của nhiều người Mỹ, những khuyết tật của Clinton về mặt đạo đức đã vấy bẩn lên di sản của ông bất kể những thành quả kinh tế đạt được vào cuối thập kỷ 1990. Cơn sốt giá tại thị trường chứng khoán cùng với tình trạng tham nhũng tại Enron đã làm suy yếu những thành quả kinh tế có được trước đó.
Thêm vào đó là những tranh cãi về các quyết định của Clinton trong chính sách đối ngoại; nhiều người cho rằng chính sách ngoại giao của ông đã tạo ra một môi trường thuận lợi cho phép những tay khủng bố như Osama bin Laden và mạng lưới al-Qaeda chuẩn bị và tổ chức các cuộc tấn công như Sự kiện 11 tháng 9. Cũng vậy, trong mắt của những người chỉ trích ông, Clinton là một tổng thống dựa vào hình ảnh của mình được khuếch trương trên TV, cùng với khả năng dụng ngữ điêu luyện nhằm che giấu sự thiếu thực chất.[cần dẫn nguồn]
Mãn nhiệm[sửa | sửa mã nguồn] Ngày 18 tháng 1 năm 2001, tại Phòng Bầu dục (Oval Office), Clinton đọc bài diễn văn trước toàn thể quốc dân lần cuối cùng, hai ngày trước khi bàn giao cho George W. Bush, con trai của người tiền nhiệm mà Clinton đã đánh bại trong cuộc tuyển cử năm 1992. Hiện nay, ông là hội viên của Câu lạc bộ Madrid.
Diễn thuyết[sửa | sửa mã nguồn]
Giống các tổng thống tiền nhiệm, Clinton hoạt động tích cực trong cương vị một diễn giả về các đề tài khác nhau. Trong những chuyến du hành diễn thuyết trên khắp thế giới, Clinton tiếp tục nhận định về những khía cạnh của nền chính trị đương đại. Một trong những chủ đề ông thích đề cập là các giải pháp đa phương nhằm giải quyết các vấn nạn đang thách thức thế giới. Mối quan hệ mật thiết với cộng đồng người Mỹ gốc Phi là điểm nổi bật trong các hoạt động của vị tổng thống mãn nhiệm với chọn lựa đặt văn phòng của ông tại khu Harlem (một trung tâm văn hóa và doanh nghiệp của người da đen) thuộc Thành phố New York. Tại đây, với sự hỗ trợ từ chồng, Hillary Clinton đã giành được ghế tại Thượng viện Hoa Kỳ đại diện cho tiểu bang New York.
Ngày 26 tháng 7 năm 2004, Clinton đăng dàn diễn thuyết lần thứ năm liên tiếp tại Đại hội Toàn quốc Đảng Dân chủ, sử dung cơ hội này để ủng hộ ứng cử viên John Kerry. Nhiều đảng viên Dân chủ tin rằng đây là một trong những bài diễn văn hay nhất trong lịch sử các kỳ đại hội.
Ngày 9 tháng 12 năm 2005, khi diễn thuyết trước Hội nghị của Liên Hợp Quốc về Thay đổi Khí hậu tổ chức tại Montréal, Clinton công khai phê phán chủ trương của chính phủ Bush về hạn chế khí thải. Trong năm 2006, hai lần Clinton đến thăm Đại học California tại Los Angeles, để cổ xúy cho những sáng kiến liên quan đến bảo vệ môi trường. Lần đầu vào ngày 1 tháng 8 năm 2006, Clinton hội kiến với Tony Blair, Ken Livingstone, Antonio Villaraigosa và Gavion Newsom để quảng bá Nhóm Lãnh đạo về Khí hậu tại các thành phố lớn. Lần sau, ông vận động cho Đề án California 87, về sau đề án này bị bác bỏ.
Bill Clinton, năm 2004
Ngày 22 tháng 6 năm 2004, Clinton cho phát hành cuốn hồi ký My Life (Đời tôi), lập kỷ lục ba lần có tên trong danh mục sách bán chạy nhất của Amazon.com. Trong một cuộc phỏng vấn phát trên sóng BBC ngày 23 tháng 6 năm 2004, khi được hỏi về những ảnh hưởng của vụ tai tiếng Monica Lewinsky đối với chức vụ tổng thống của ông, Clinton thừa nhận ông đã phạm nhiều sai lầm trong thời gian đương chức. Ông cũng nói về triển vọng cho nhiệm kỳ tổng thống của một Clinton khác khi vợ ông, Hillary Clinton, có thể quyết định ra tranh cử vào năm 2008.
Ngày 18 tháng 11 năm 2004, ông khánh thành thư viện tổng thống, Trung tâm William J. Clinton, tại Little Rock, tiểu bang Arkansas. Dưới trời mưa, Clinton nhận những lời khen ngợi từ các cựu Tổng thống Jimmy Carter và George H. W. Bush, cũng như tổng thống đương nhiệm George W. Bush.
Hoạt động từ thiện[sửa | sửa mã nguồn]
Khi tham dự Diễn đàn Doanh nghiệp Toàn cầu ở Sydney, Clinton ký kết bản ghi nhớ với chính phủ Úc nhằm quảng bá các chương trình phòng chống HIV/AIDS trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương.
Ngày 5 tháng 12 năm 2006, Việt Nam là điểm dừng chân sau cùng của Clinton trong hành trình châu Á thăm các nước bị ảnh hưởng bởi Thảm họa Sóng thần Ấn Độ Dương năm 2004 và thăm các dự án sáng kiến phòng chống HIV/AIDS của Quỹ Clinton. Tại đây, ông ký một biên bản thỏa thuận với Bộ Y tế Việt Nam về việc cung cấp thuốc điều trị và thuốc thử nghiệm HIV cho 1.200 trẻ em nhiễm HIV ở Việt Nam đến cuối năm 2007.
Clinton cũng tham dự một buổi tọa đàm với sinh viên và học sinh Việt Nam về vai trò của thanh niên trong nỗ lực chống HIV/AIDS[6].
Tình bạn với George H. W. Bush[sửa | sửa mã nguồn]
Có những dấu hiệu cho thấy mối thân tình đang phát triển giữa hai cựu tổng thống, Clinton và George H.W. Bush. Sau buổi lễ giới thiệu chân dung Clinton tại Nhà Trắng vào tháng 6 năm 2004, thảm họa sóng thần châu Á, Bão Katrina, và kỳ bầu cử năm 2004, Clinton và Bush đã gặp nhau.
Ngày 3 tháng 1 năm 2005, Tổng thống George W. Bush ủy nhiệm Clinton và George H.W. Bush lãnh đạo chiến dịch toàn quốc trợ giúp nạn nhân thảm họa động đất Ấn Độ Dương năm 2004. Ngày 1 tháng 2 năm 2005, Clinton được Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc Kofi Annan mời cầm đầu những nỗ lực của LHQ về cứu trợ và tái thiết sau thảm họa. Năm ngày sau đó, Clinton cùng xuất hiện với Bush trong một chương trình của đài truyền hình Fox biểu thị sự ủng hộ dành cho nỗ lực của hai chính đảng nhằm quyên góp tiền cứu trợ, một hành động mà Bush mô tả là “vượt qua các lằn ranh chính trị”. Mười ba ngày sau, cả hai cùng đến thăm những khu vực bị ảnh hưởng.
Ngày 31 tháng 8 năm 2005, sau những thiệt hại nặng nề bởi Cuồng phong Katrina, Clinton lại cộng tác với George H.W. Bush để điều phối các quỹ từ thiện trong khuôn khổ của một chiến dịch đáp ứng các nhu cầu cấp thiết cho nạn nhân.
Ngày 2 tháng 4 năm 2005, cùng với Tổng thống George W. Bush và cựu Tổng thống George H. W. Bush, Bill Clinton tham dự tang lễ của Giáo hoàng John Paul II tại Vatican.
Sang Bắc Triều Tiên năm 2009[sửa | sửa mã nguồn] Clinton đã thực hiện một chuyến đi không được thông báo tới Bắc Triều Tiên, mà Hoa Kỳ không có quan hệ ngoại giao, ngày 4 tháng 8 năm 2009.[7] Clinton tới Bình Nhưỡng để đàm phán giải thoát các công dân Mỹ Euna Lee và Laura Ling, đã bị các lực lượng Bắc Triều Tiên bỏ tù do xâm nhập bất hợp pháp nước này từ Trung Quốc khi đang quay một phim tài liệu và tuyên án 12 năm tù.[8] Chuyến thăm Bắc Triều Tiên của ông là chuyến đi thứ hai như thế của một cựu tổng thống Mỹ, chuyến viếng thăm kia xảy ra khi Jimmy Carter tới nước này năm 1994.[8] Sau khi gặp gỡ với lãnh đạo Bắc Triều Tiên Kim Jong-il, Kim đã ra một lệnh ân xá đặc biệt cho 2 nhà báo Mỹ.[9] Buổi sáng ngày 5 tháng 8, 2 nhà báo được thả và bay về Mỹ với Clinton.[10]
Tác phẩm[sửa | sửa mã nguồn]
Between Hope and History (Giữa hi vọng và lịch sử, 1996), chính luận
My Life (Đời tôi, 2004), hồi kí
Giving: How Each of Us Can Change the World (2009), ghi chép
Back to Work (Trở lại công việc, 2011), chính luận
The President Is Missing (Tổng thống mất tích, 2018), tiểu thuyết viết cùng James Patterson
Chuyện bên lề[sửa | sửa mã nguồn]
Bài viết này có liệt kê các thông tin bên lề. Xin chuyển các thông tin có liên quan vào các phần hoặc bài viết khác phù hợp.
Bill Clinton vật lộn với thói quen phàm ăn của mình, thói quen này là một trong những nguyên nhân dẫn đến bệnh tim của ông. Năm 2004, ông Clinton đã phải trải qua một cuộc phẫu thuật hở tim. Sau đó, ông phải điều chỉnh chế độ ăn uống để giảm lượng cholesterol trong máu và không lâu sau đó ông trở thành một người ăn chay.
Tiếng tăm của Clinton lớn đến nỗi đã có một vài cuốn phim và các bài hát “nhái” được sáng tác nói về kỹ năng sử dụng cần sa “hút mà không hít”, tính trăng hoa, và bà vợ đầy uy quyền của ông.
Clinton cao 6 foot, 3 inch (191 cm).
Clinton theo đạo Baptist
Roger Clinton, Jr. là một trong số 140 người được ông anh ân xá trong ngày cuối cùng của nhiệm kỳ tổng thống của Clinton.
Sau khi mãn nhiệm tổng thống, ông Clinton đã bị tòa dân sự rút bằng luật sư hành nghề vì tội khai man trong các vụ việc bê bối ngoại tình của mình lúc còn đương nhiệm.
Trong thời gian diễn ra World Cup 2010, ông tỏ ra là một tín đồ trung thành của đội tuyển bóng đá quốc gia Hoa Kỳ.
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
^ .mw-parser-output cite.citationfont-style:inherit.mw-parser-output .citation qquotes:”“”””””‘””’”.mw-parser-output .id-lock-free a,.mw-parser-output .citation .cs1-lock-free abackground:linear-gradient(transparent,transparent),url(“//upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/6/65/Lock-green.svg”)right 0.1em center/9px no-repeat.mw-parser-output .id-lock-limited a,.mw-parser-output .id-lock-registration a,.mw-parser-output .citation .cs1-lock-limited a,.mw-parser-output .citation .cs1-lock-registration abackground:linear-gradient(transparent,transparent),url(“//upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/d/d6/Lock-gray-alt-2.svg”)right 0.1em center/9px no-repeat.mw-parser-output .id-lock-subscription a,.mw-parser-output .citation .cs1-lock-subscription abackground:linear-gradient(transparent,transparent),url(“//upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/a/aa/Lock-red-alt-2.svg”)right 0.1em center/9px no-repeat.mw-parser-output .cs1-subscription,.mw-parser-output .cs1-registrationcolor:#555.mw-parser-output .cs1-subscription span,.mw-parser-output .cs1-registration spanborder-bottom:1px dotted;cursor:help.mw-parser-output .cs1-ws-icon abackground:linear-gradient(transparent,transparent),url(“//upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/4/4c/Wikisource-logo.svg”)right 0.1em center/12px no-repeat.mw-parser-output code.cs1-codecolor:inherit;background:inherit;border:none;padding:inherit.mw-parser-output .cs1-hidden-errordisplay:none;font-size:100%.mw-parser-output .cs1-visible-errorfont-size:100%.mw-parser-output .cs1-maintdisplay:none;color:#33aa33;margin-left:0.3em.mw-parser-output .cs1-formatfont-size:95%.mw-parser-output .cs1-kern-left,.mw-parser-output .cs1-kern-wl-leftpadding-left:0.2em.mw-parser-output .cs1-kern-right,.mw-parser-output .cs1-kern-wl-rightpadding-right:0.2em.mw-parser-output .citation .mw-selflinkfont-weight:inherit“Biography of William J. Clinton”. The White House. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 29 tháng 10 năm 2008.
^ Sandalow, Marc (ngày 14 tháng 1 năm 2001). “Clinton Era Marked by Scandal, Prosperity: 1st Baby Boomer in White House Changed Notions of Presidency”. San Francisco Chronicle. Truy cập ngày 29 tháng 10 năm 2008.
^ Directory of Irish Genealogy: American Presidents with Irish Ancestors
^ Clinton, Bill (2004). My Life. Random House. ISBN 1-4000-3003-X.
^ Maraniss, David (1996). First In His Class: A Biography Of Bill Clinton. Touchstone. ISBN 0684818906.
^ Cựu tổng thống Bill Clinton đến Việt Nam, CẨM HÀ, báo Tuổi Trẻ 6/12/2006 03:42 (GMT + 7)
^ “Bill Clinton Arrives Here”. Korean Central News Agency. ngày 4 tháng 8 năm 2009. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2009.
^ a b “Bill Clinton arrives in N Korea”. BBC News. ngày 4 tháng 8 năm 2009. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2009.
^ “North Korea pardons US reporters”. BBC News. ngày 4 tháng 8 năm 2009. Truy cập ngày 5 tháng 8 năm 2009.
^ “In Release of Journalists, Both Clintons Had Key Roles”. The New York Times. ngày 5 tháng 8 năm 2009. Truy cập ngày 5 tháng 8 năm 2009.
Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Bill Clinton.
Tổng thống Hoa Kỳ
Quốc hội Hoa Kỳ
Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ
Hillary Clinton
Monica Lewinsky
Nền Kinh tế Mới
Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]
Tìm hiểu thêm vềBill Clintontại các dự án liên quan
Từ điển từ Wiktionary
Tập tin phương tiện từ Commons
Tin tức từ Wikinews
Danh ngôn từ Wikiquote
Văn kiện từ Wikisource
Tủ sách giáo khoa từ Wikibooks
Tài nguyên học tập từ Wikiversity
Extensive essay on Bill Clinton and shorter essays on each member of his cabinet and First Lady from the Miller Center of Public Affairs
Full audio of a number of Clinton speeches via the Miller Center of Public Affairs (UVa) Lưu trữ 2008-03-20 tại Wayback Machine
White House biography
William J. Clinton Foundation official website
Clinton Global Initiative official website
Clinton Presidential Library official website
Clinton Presidential Materials Project Lưu trữ 2013-07-26 tại Wayback Machine Archive of press releases and transcripts of speeches from the administration.
Clinton School of Public Service
President Bill Clinton Biography Lưu trữ 2012-01-19 tại Wayback Machine on the World Business Forum where President Bill Clinton is a featured speaker for the 2009 event
Các tác phẩm của Bill Clinton tại Dự án Gutenberg
Oral History Interview with Bill Clinton from Oral Histories of the American South
Bill Clinton trên IMDb
The Wanderer- A profile of Clinton in The New Yorker, 18 tháng 9 năm 2006. Clinton’s most extensive interview in his post-presidency
[1] Lưu trữ 2013-04-12 tại Wayback Machine – “Armigerous American Presidents Series” article from the American Heraldry Society.
Encyclopedia of Arkansas History & Culture entry: Bill Clinton
TED Prize Wish: Bill Clinton on rebuilding Rwanda at TED in 2007
Chức vụ Đảng
Tiền nhiệm:Michael Dukakis
Ứng cử viên Tổng thống Hoa Kỳ đại diện cho Đảng Dân chủ1992, 1996
Kế nhiệm:Al Gore
Chức vụ
Tiền nhiệm:George H. W. Bush
Tổng thống Hoa Kỳ1993–2001
Kế nhiệm:George W. Bush
xtsTổng thống Hoa Kỳ.mw-parser-output .div-colmargin-top:0.3em;column-width:30em.mw-parser-output .div-col-smallfont-size:90%.mw-parser-output .div-col-rulescolumn-rule:1px solid #aaa.mw-parser-output .div-col dl,.mw-parser-output .div-col ol,.mw-parser-output .div-col ulmargin-top:0.mw-parser-output .div-col li,.mw-parser-output .div-col ddpage-break-inside:avoid;break-inside:avoid-column
George Washington (1789–1797)
John Adams (1797–1801)
Thomas Jefferson (1801–1809)
James Madison (1809–1817)
James Monroe (1817–1825)
John Quincy Adams (1825–1829)
Andrew Jackson (1829–1837)
Martin Van Buren (1837–1841)
William Henry Harrison (1841)
John Tyler (1841–1845)
James K. Polk (1845–1849)
Zachary Taylor (1849–1850)
Millard Fillmore (1850–1853)
Franklin Pierce (1853–1857)
James Buchanan (1857–1861)
Abraham Lincoln (1861–1865)
Andrew Johnson (1865–1869)
Ulysses S. Grant (1869–1877)
Rutherford B. Hayes (1877–1881)
James A. Garfield (1881)
Chester A. Arthur (1881–1885)
Grover Cleveland (1885–1889)
Benjamin Harrison (1889–1893)
Grover Cleveland (1893–1897)
William McKinley (1897–1901)
Theodore Roosevelt (1901–1909)
William Howard Taft (1909–1913)
Woodrow Wilson (1913–1921)
Warren G. Harding (1921–1923)
Calvin Coolidge (1923–1929)
Herbert Hoover (1929–1933)
Franklin D. Roosevelt (1933–1945)
Harry S. Truman (1945–1953)
Dwight D. Eisenhower (1953–1961)
John F. Kennedy (1961–1963)
Lyndon B. Johnson (1963–1969)
Richard Nixon (1969–1974)
Gerald Ford (1974–1977)
Jimmy Carter (1977–1981)
Ronald Reagan (1981–1989)
George H. W. Bush (1989–1993)
Bill Clinton (1993–2001)
George W. Bush (2001–2009)
Barack Obama (2009–2017)
Donald Trump (2017–2021)
Joe Biden (2021–nay)
Hình
Thể loại
Danh sách
xtsNhân vật của năm do Time bình chọn
Jimmy Carter (1976)
Anwar Al-Sadad (1977)
Đặng Tiểu Bình (1978)
Ruhollah Khomeini (1979)
Ronald Reagan (1980)
Lech Wałęsa (1981)
Máy tính (1982)
Ronald Reagan / Yuri Andropov (1983)
Peter Ueberroth (1984)
Đặng Tiểu Bình (1985)
Corazon Aquino (1986)
Mikhail Gorbachyov (1987)
Trái Đất Lâm Nguy (1988)
Mikhail Gorbachyov (1989)
George H. W. Bush (1990)
Ted Turner (1991)
Bill Clinton (1992)
Nhà đàm phán hòa bình: Yitzhak Rabin / Nelson Mandela / F. W. de Klerk / Yasser Arafat (1993)
Giáo hoàng Gioan Phaolô II (1994)
Newt Gingrich (1995)
David Ho (1996)
Andrew Grove (1997)
Bill Clinton / Ken Starr (1998)
Jeffrey P. Bezos (1999)
George W. Bush (2000)
Bài viết đầy đủ
1927–1950
1951–1975
1976–2000
2001–nay
xts Thống đốc ArkansasLãnh thổ .mw-parser-output .noboldfont-weight:normal(1819 – 1836)
J. Miller
Izard
Pope
Fulton
Tiểu bang (từ 1836)
J. Conway
Yell
Adams
Drew
Byrd
Roane
E. Conway
Rector
Fletcher
Flanagin
Murphy
Clayton
Hadley
Baxter
Brooks*
Baxter
Garland
W. Miller
Churchill
Berry
Hughes
Eagle
Fishback
Clarke
Jones
Davis
Little
Moore
Pindall
Martin
Donaghey
Robinson
Oldham
Futrell
Hays
Brough
McRae
Terral
Martineau
Parnell
Futrell
Bailey
Adkins
Laney
McMath
Cherry
Faubus
Rockefeller
Bumpers
Riley
Pryor
Purcell
Clinton
White
Clinton
Tucker
Huckabee
Beebe
Hutchinson
In nghiêng Quyền Thống đốc.
* Tranh chấp, xem Chiến tranh Brooks – Baxter.
Tiêu đề chuẩn
BIBSYS: 90706336
BNC: 000243205
BNE: XX1085266
BNF: cb12375168h (data)
CANTIC: a11696783
CiNii: DA07017329
GND: 119063395
ICCU: Italy
ISNI: 0000 0001 2096 7620
LCCN: n82029644
LNB: 000001709
MBA: a11bd200-7f0b-43a6-b7fe-4ea04929a42b
NARA: 10569448
NDL: 00464673
NKC: jn20000700315
NLA: 36058788
NLG: 69706
NLI: 001401438
NLK: KAC199638852
NLP: A11873644
NSK: 000140309
NTA: 102016194
PLWABN: 9810594981905606
RERO: 02-A000037051
SELIBR: 173992
SNAC: w6251gqr
SUDOC: 031695582
Trove: 1204029
ULAN: 500238157
VIAF: 102338519
WorldCat Identities: lccn-n82029644
Lượt đánh giá: 7542
Lượt xem: 73277275
TOP 5 KĨ NĂNG MẠNH NHẤT FREE FIRE ĐƯỢC DÙNG PHỔ BIẾN NHẤT HIỆN NAY – AI CŨNG MUỐN HỌC từ Youtube
💎Shop Kim Cương Free Fire – Chỉ Với 19k Cơ Hội Cao Nhận 15.000 Kim Cương: https://shopmrkidff.vn/
►Liên Hệ Hỗ Trợ Shop Của MR KID: https://bitly.com.vn/kfybok
*** HEY GUY! THIS IS MY REACTION ABOUT YOUR VIDEO, I LOVE IT SO MUCH! IF YOU HAVE ANY ISSUE ABOUT VIDEO PLEASE CONTACT ME !
Credit From:@BR4Zx FF @Vincenzo @RUOK FF @JACK FF @M16 FF
============
► Hãy ủng hộ mình bằng cách ấn vào Quảng Cáo nhé mọi người. Điều này sẽ giúp mình có đủ kinh phí để duy trì và phát triển kênh
► Giấc mơ của Kid 1.000.000 người đăng kí !
http://www.youtube.com/c/MRKidTV
► DONATE: Tài Trợ Ủng Hộ Kid Nhé!
*Tài Khoản ACB: 1089.5857 – Vo Hoang Huan
=========================
Contact me at :
– TikTok: https://www.tiktok.com/@mrkidtv0?lang=vi-VN
– Email: trananhdung952@gmail.com
– Facebook Của KID: https://www.facebook.com/huan.hoang.5891004
– Facebook Của Nhóm: https://www.facebook.com/groups/555431465324385/
==========================
Song: Ikson – Anywhere (Vlog No Copyright Music)
Music promoted by Vlog No Copyright Music.
Video Link: https://youtu.be/UY08PUqArZI
Song: Ikson – New Day (Vlog No Copyright Music)
Link: https://www.youtube.com/watch?v=QMOadtGpwlw
Song: Tobu – Hope [NCS Release] Link: https://www.youtube.com/watch?v=EP625xQIGzs
#GarenaFreeFire #MRKIDTV
Đánh giá: 4-5 sao
Lượt đánh giá: 3544
3. Trong 3 Kĩ Năng Phím F Của Cuồng Long, Kĩ Năng Nào Được Ưu Tiên Hàng Đầu? từ dantri.com.vn
dantri.com.vn
Trong 3 Kĩ Năng Phím F Của Cuồng Long, Kĩ Năng Nào Được Ưu Tiên Hàng Đầu?
Đánh giá: 4-5 sao
Lượt đánh giá: 2914
4. Trong 3 Kĩ Năng Phím F Của Cuồng Long, Kĩ Năng Nào Được Ưu Tiên Hàng Đầu? từ tuoitre.vn
tuoitre.vn
Trong 3 Kĩ Năng Phím F Của Cuồng Long, Kĩ Năng Nào Được Ưu Tiên Hàng Đầu?
Đánh giá: 4-5 sao
Lượt đánh giá: 7798
5. Trong 3 Kĩ Năng Phím F Của Cuồng Long, Kĩ Năng Nào Được Ưu Tiên Hàng Đầu? từ thanhnien.vn
thanhnien.vn
Trong 3 Kĩ Năng Phím F Của Cuồng Long, Kĩ Năng Nào Được Ưu Tiên Hàng Đầu?
Đánh giá: 4-5 sao
Lượt đánh giá: 1524
6. Trong 3 Kĩ Năng Phím F Của Cuồng Long, Kĩ Năng Nào Được Ưu Tiên Hàng Đầu? từ tienphong.vn
tienphong.vn
Trong 3 Kĩ Năng Phím F Của Cuồng Long, Kĩ Năng Nào Được Ưu Tiên Hàng Đầu?
Đánh giá: 4-5 sao
Lượt đánh giá: 8290
7. Trong 3 Kĩ Năng Phím F Của Cuồng Long, Kĩ Năng Nào Được Ưu Tiên Hàng Đầu? từ vietnamnet.vn
vietnamnet.vn
Trong 3 Kĩ Năng Phím F Của Cuồng Long, Kĩ Năng Nào Được Ưu Tiên Hàng Đầu?
Đánh giá: 4-5 sao
Lượt đánh giá: 5584
8. Trong 3 Kĩ Năng Phím F Của Cuồng Long, Kĩ Năng Nào Được Ưu Tiên Hàng Đầu? từ soha.vn
soha.vn
Trong 3 Kĩ Năng Phím F Của Cuồng Long, Kĩ Năng Nào Được Ưu Tiên Hàng Đầu?
Đánh giá: 4-5 sao
Lượt đánh giá: 6819
9. Trong 3 Kĩ Năng Phím F Của Cuồng Long, Kĩ Năng Nào Được Ưu Tiên Hàng Đầu? từ 24h.com.vn
24h.com.vn
Trong 3 Kĩ Năng Phím F Của Cuồng Long, Kĩ Năng Nào Được Ưu Tiên Hàng Đầu?
Đánh giá: 4-5 sao
Lượt đánh giá: 3208
10. Trong 3 Kĩ Năng Phím F Của Cuồng Long, Kĩ Năng Nào Được Ưu Tiên Hàng Đầu? từ kenh14.vn
kenh14.vn
Trong 3 Kĩ Năng Phím F Của Cuồng Long, Kĩ Năng Nào Được Ưu Tiên Hàng Đầu?
Đánh giá: 4-5 sao
Lượt đánh giá: 4568
11. Trong 3 Kĩ Năng Phím F Của Cuồng Long, Kĩ Năng Nào Được Ưu Tiên Hàng Đầu? từ zingnews.vn
zingnews.vn
Trong 3 Kĩ Năng Phím F Của Cuồng Long, Kĩ Năng Nào Được Ưu Tiên Hàng Đầu?
Đánh giá: 4-5 sao
Lượt đánh giá: 6135
12. Trong 3 Kĩ Năng Phím F Của Cuồng Long, Kĩ Năng Nào Được Ưu Tiên Hàng Đầu? từ vietnammoi.vn
vietnammoi.vn
Trong 3 Kĩ Năng Phím F Của Cuồng Long, Kĩ Năng Nào Được Ưu Tiên Hàng Đầu?
Đánh giá: 4-5 sao
Lượt đánh giá: 4610
13. Trong 3 Kĩ Năng Phím F Của Cuồng Long, Kĩ Năng Nào Được Ưu Tiên Hàng Đầu? từ vov.vn
vov.vn
Trong 3 Kĩ Năng Phím F Của Cuồng Long, Kĩ Năng Nào Được Ưu Tiên Hàng Đầu?
Đánh giá: 4-5 sao
Lượt đánh giá: 4619
14. Trong 3 Kĩ Năng Phím F Của Cuồng Long, Kĩ Năng Nào Được Ưu Tiên Hàng Đầu? từ afamily.vn
afamily.vn
Trong 3 Kĩ Năng Phím F Của Cuồng Long, Kĩ Năng Nào Được Ưu Tiên Hàng Đầu?
Đánh giá: 4-5 sao
Lượt đánh giá: 2532
15. Trong 3 Kĩ Năng Phím F Của Cuồng Long, Kĩ Năng Nào Được Ưu Tiên Hàng Đầu? từ cafebiz.vn
cafebiz.vn
Trong 3 Kĩ Năng Phím F Của Cuồng Long, Kĩ Năng Nào Được Ưu Tiên Hàng Đầu?
Đánh giá: 4-5 sao
Lượt đánh giá: 6142
16. Trong 3 Kĩ Năng Phím F Của Cuồng Long, Kĩ Năng Nào Được Ưu Tiên Hàng Đầu? từ suckhoedoisong.vn
suckhoedoisong.vn
Trong 3 Kĩ Năng Phím F Của Cuồng Long, Kĩ Năng Nào Được Ưu Tiên Hàng Đầu?
Đánh giá: 4-5 sao
Lượt đánh giá: 5762
17. Trong 3 Kĩ Năng Phím F Của Cuồng Long, Kĩ Năng Nào Được Ưu Tiên Hàng Đầu? từ coccoc.com
coccoc.com
Trong 3 Kĩ Năng Phím F Của Cuồng Long, Kĩ Năng Nào Được Ưu Tiên Hàng Đầu?
Đánh giá: 4-5 sao
Lượt đánh giá: 2307
18. Trong 3 Kĩ Năng Phím F Của Cuồng Long, Kĩ Năng Nào Được Ưu Tiên Hàng Đầu? từ facebook.com
facebook.com
Trong 3 Kĩ Năng Phím F Của Cuồng Long, Kĩ Năng Nào Được Ưu Tiên Hàng Đầu?
Đánh giá: 4-5 sao
Lượt đánh giá: 5053
Câu hỏi về Trong 3 Kĩ Năng Phím F Của Cuồng Long, Kĩ Năng Nào Được Ưu Tiên Hàng Đầu?
Nếu có bắt kỳ thắc mắc nào về Trong 3 Kĩ Năng Phím F Của Cuồng Long, Kĩ Năng Nào Được Ưu Tiên Hàng Đầu? hãy cho chúng mình biết nhé, mọi câu hỏi hay góp ý của các bạn sẽ giúp mình hoàn thiện hơn trong các bài sau nhé!
Bài viết Trong 3 Kĩ Năng Phím F Của Cuồng Long, Kĩ Năng Nào Được Ưu Tiên Hàng Đầu? được mình và team tổng hợp từ nhiều nguồn. Nếu thấy bài viết Trong 3 Kĩ Năng Phím F Của Cuồng Long, Kĩ Năng Nào Được Ưu Tiên Hàng Đầu? giúp ích cho bạn thì hãy ủng hộ team Like hoặc Share nhé!
Từ khóa tìm Trong 3 Kĩ Năng Phím F Của Cuồng Long, Kĩ Năng Nào Được Ưu Tiên Hàng Đầu?
Trong 3 Kĩ Năng Phím F Của Cuồng Long, Kĩ Năng Nào Được Ưu Tiên Hàng Đầu?
cách Trong 3 Kĩ Năng Phím F Của Cuồng Long, Kĩ Năng Nào Được Ưu Tiên Hàng Đầu?
hướng dẫn Trong 3 Kĩ Năng Phím F Của Cuồng Long, Kĩ Năng Nào Được Ưu Tiên Hàng Đầu?
Trong 3 Kĩ Năng Phím F Của Cuồng Long, Kĩ Năng Nào Được Ưu Tiên Hàng Đầu? miễn phí
100 lần tự tìm hiểu cũng không bằng 1 lần được tư vấn